Nhưng khi đặt các truyện ký của Hồng Chiến nằm cạnh nhau trong một hệ thống, tập sách đã tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật chiếu rọi lên các sự kiện, sự vật, cũng như mỗi thân phận người vất vả vì cuộc mưu sinh, qua đó góp phần khẳng định bản lĩnh văn xuôi của Hồng Chiến.
Trải dài theo trang sách là hầu hết các truyện ký trong tập sách đều có sự tham gia trực tiếp của tác giả, là người kể lại chuyện của bạn bè, chuyện của người thân, hay chuyện của chính mình được trải nghiệm qua cuộc sống.
Qua giọng văn của Hồng Chiến kể lại không nhằm mục đích cung cấp cho người đọc biết thêm một câu chuyện, một sự kiện đời sống mà gợi nên những suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời. Không chỉ dừng lại ở việc mô tả những nỗi đau trong sâu thẳm tâm hồn của một người nghệ sĩ vốn đã trải nghiệm cuộc đời. Nhiều người đánh giá truyện ký của Hồng Chiến nhiều sự kiện, nặng về chất liệu của báo chí, thiếu tính chất của văn chương. Theo tôi, đó là những nhận xét chưa thỏa đáng. Bởi vì, tính trung thực trong một tác phẩm văn học đó mới là bản chất của văn chương. Nhưng tùy theo cái gu thẩm mĩ của từng nhà văn thì sẽ có cách tiếp cận khác nhau, và qua đó ta sẽ thấy giọng điệu văn chương của từng người cũng khác nhau. Chính vì thế mà khi ta đọc tác phẩm văn chương ta dễ bắt gặp, dễ nhận biết đó là văn của ai, thơ của ai. Đó chính là dấu ấn cá nhân của từng tác giả gởi vào tác phẩm của mình.
Và sự thành công trong tập bút ký : Tiếng kêu chim én của Hồng Chiến theo tôi chính là ở chỗ: Hồng Chiến đã tìm được cho mình một văn thể, một giọng điệu nhẹ nhàng kín đáo, dễ chấp nhận, dễ tiếp thu, để khơi gợi những nỗi đau rất đời. Bởi vì, không phải bao giờ những sự thật, những mặt trái, những đau đớn, những trái ngang, những xót xa cũng dễ dàng được con người ta chấp nhận, được con người ta bộc lộ một cách trực diện, cụ thể. Nỗi đau trước những cảnh ngộ phũ phàng bao giờ cũng âm ỉ, khó tỏ bày nhưng cần phải được ý thức về nó một cách đầy đủ để đưa ra nhận thức, hành động đúng đắn hơn.
@Chuyện về những người lính từ Thái Bình vào Ea súp (Đak Lak) để xây dựng vùng kinh tế mới.
Như một câu chuyện cổ tích: vùng đất hoang vu đã thành cánh đồng trù phú.
Thành quả hôm nay là sự kết tinh của sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng và chính
quyền các cấp với những con người dám nghĩ dám làm, dám hy sinh lợi ích cá nhân
vì công việc chung, vì lợi ích cộng đồng. Hai đồng chí lãnh đạo của huyện Ea
Súp thuộc hai thế hệ kế tiếp nhau, không khỏi bùi ngùi, xúc động khi nhắc lại
các vị lãnh đạo huyện thuở ban đầu như: Ma
Ðam, Thu Nga, Y Sơn, Y Li, Y Nga Kbua, Trần Biên... Họ, nay người còn người
mất, người ở Ðắk Lắk, người chuyển đi xa, nhưng tất cả đã góp công sức
của mình vào sự hưng thịnh của vùng đất bình nguyên Ea Súp bao gồm không chỉ
huyện Ea Súp hôm nay mà còn cả các huyện Cư M'gar, Buôn Ðôn.
Ðêm về khuya, từng cơn gió mát ào đến. Phía tây thỉnh thoảng lóe lên những
ánh chớp ngoằn ngoèo báo hiệu một cơn mưa sắp đến. Cả thị trấn sáng trưng dưới
ánh đèn điện soi rõ những căn nhà cao tầng đứng uy nghi như tạc vào đường chân
trời trong một bức tranh. Nhìn về phía đông, dãy đèn điện trên bờ hồ đập Ea Súp
Thượng lung linh rải bạc xuống mặt hồ làm sáng bừng cả góc trời, như thể có một
thành phố vừa mới mọc lên. Chia tay các anh, lòng tôi tràn ngập một niềm vui. Ở
vùng đất giàu tiềm năng này, với cán bộ lãnh đạo sâu sát như các anh, tôi tin
cuộc sống của người dân sẽ không chỉ đoạn tuyệt được đói nghèo mà còn có thể
làm giàu trên chính mảnh đất tưởng chừng mãi mãi khô cằn này. Vùng đất ngủ quên
bao đời nay đã được đánh thức. Một tương lai rực rỡ đang đón đợi phía trước.
Mùa thu năm 2007
( Sự tích một bài ca)
@ Chuyện về dịch cúm gia cầm ở Tây Nguyên cũng làm cho ngòi bút của Hồng Chiến run lên vì thương cảm.
Dịch cúm gia cầm tràn vào nước
ta như một cơn ác mộng khủng khiếp. Từ thành thị đến nông thôn, và ngay cả ở
huyện Ea Kar, một huyện miền núi nhỏ bé nằm khuất sâu trên cao nguyên Đăk Lăk nó
cũng không tha. Người dân ý thức được nhiệm vụ của mình trước tai họa khủng khiếp
ấy nên có nơi đã kịp thời hủy cả đàn gia cầm nhà mình tuy chưa có dấu hiệu gì bị lây nhiễm bệnh và cách xa ổ dịch hàng chục ki-lô-mét.
Những buôn làng Tây Nguyên mỗi sáng thức dậy râm ran tiếng gà gáy gọi nhau như
một bản nhạc đồng quê với đủ giai điệu, tiết tấu, giờ đây không còn nữa. Tất cả
đã lặng đi, tạo ra một khoảng trống trong không gian và cả trong lòng người dân
quê khi thiếu vắng một tiếng gà gọi nhau.
Xót xa quá! Đau đớn quá! Nếu
như làng quê Việt Nam
chúng ta lại mất đi tiếng gà gáy quen thuộc, mất đi hình bóng những chú gà
quanh quẩn bên gốc cây, bến nước, hay ngay cạnh những lối đi. Con vật quen thuộc
ấy không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm quý giá, quen thuộc, rẻ tiền và thuận tiện
cho mỗi gia đình người nông dân Việt Nam - đặc biệt là người dân vùng núi cao,
nơi đi chợ mua bán khó khăn, đất nương rẫy bạt ngàn - luôn luôn vẫn có đồ ăn tươi
hàng ngày, mà còn là con vật thân quen không thể thiếu của mỗi gia đình. Cho dù
có nghèo đến mấy, mỗi gia đình cũng có vài chục con gà đủ các màu sắc thơ thẩn
trong vườn, bới đất nhặt sâu. Con gà đối với người dân Việt Nam chúng ta quý là vậy, đáng yêu là
vậy, nay bỗng nhiên biến mất, làm sao không buồn cho được .
(Thương lắm một tiếng gà!)
@Rồi đến chuyện con chim én -một sứ giả của mùa xuân, nay bị người ta săn lùng để đưa lên bàn nhậu cũng đủ để Hồng Chiến thốt lên những lời đau đớn từ tận tâm can, khiến cho tai người đọc vang lên nhức nhối.
...
Trong những ngày cuối tháng bảy, dân nhậu ở huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk loan
đi “bản tin” rất đáng lưu ý: muốn ăn đặc sản chim én hãy vào xã Chư Zang! Không
biết tin đó đúng sai thế nào mà người ta đổ xô vào để tận hưởng món thực phẩm mới,
lạ,ï hấp dẫn, kéo theo cả sự tò mò. Tuy không phải là đệ tử của “thần lưu linh”
nhưng cái tin có “đặc sản chim én” làm tôi phân vân nửa tin, nửa ngờ và nảy ra ý
định vào tận nơi xem sao. Biết đâu mấy tay bơm nhậu rủ nhau đi ăn thịt “rắn vuông”
cũng nên.
Sáng chủ nhật, tôi phóng xe máy từ thị trấn Ea Kar vào xã Chư Zang. Con đường
dài chưa đến 40km nay đã được rải đá cấp phối nên đi lại khá tốt, không giống
như mấy năm trước cũng con đường này nếu đi vào mùa mưa xe máy phải đi mất cả
buổi và chuẩn bị vài chục ngàn tiền lẻ trả tiền đi nhờ đất, nhờ cầu. Chuyện thật
trăm phần trăm mà nghe như bịa: Hồi đó đoạn đường đi qua xã Ea Păn để vào xã Chư
Zang vì xe ôtô, xe máy cày chạy nhiều nên có đoạn bị lún xuống như ruộng, không
thể nào đi xe đạp hay xe máy qua được, buộc lòng người ta phải đi tránh chỗ lầy
ấy vào góc vườn của một nhà bên cạnh đường dài khoảng 20 mét. Chủ nhà rất vui lòng
cho đi nhờ với điều kiện một xe máy đi qua phải trả 1000 đồng còn xe đạp 500 đồng.
Tính ra mỗi lần đi nhờ trên đất của người ta mỗi mét phải trả 50 đồng. Chưa hết,
cây cầu xi măng bắc qua con suối nhỏ chỉ cách Ủy ban xã Ea Păn khoảng 200 mét bị
lũ cuốn trôi mất một đoạn đường ngay đầu cầu rộng chừng hai mét. Một người dân
gần đó sẵn lòng “làm phúc” giúp người qua đường, tự mang mấy tấm ván nhỏ bắc
qua chỗ sạt để người đi xe máy, xe đạp có thể qua lại và chỉ “xin” trả công cũng
đúng 1000 đồng một lần qua của xe máy và 500 đồng đối với xe đạp. Làm phép tính
đơn giản ta thấy mỗi mét đi nhờ “cây cầu” phải trả 500 đồng. Nhưng muốn đến Ủy
ban nhân dân xã Chư Zang phải qua hai cây cầu như vậy và giá cả như nhau. Ấy là
chưa kể muốn vào mấy xóm phía tây của xã phải đi qua một con đò mà giá “mềm” một
chuyến cũng phải trả không dưới 10.000 đồng cho một lượt người. Còn hôm nay xe
chạy rất êm, không gặp ổ gà, ổ voi nào cả. Có lẽ vì đường đi thuận tiện thế này
nên mấy tay buôn bán thú rừng, sành ăn, mò vào đây cũng phải.
...
Chỉ tội con chim én, sứ giả của mùa xuân, biểu tượng mãnh liệt của tình yêu
thiên nhiên; tuy thân hình bé nhỏ nhưng can đảm tuyệt vời đã tung cánh bay liên
tục một nửa vòng trái đất về đến đây, được “đón tiếp nồng nhiệt” trên bàn nhậu.
Tôi còn nhớ hồi nhỏ, bầy trẻ chăn trâu bao giờ cũng náo nức chào đón bầy én bay
rợp trời trở về khi hoa đào nở rộ. Không ai nỡ làm hại chúng dù chỉ là va chạm
nhẹ. Còn giờ đây người ta đang tôn chúng lên hàng “đặc sản”. Và cứ đà này thì
không bao lâu nữa con cái chúng ta chỉ biết đến loài chim én qua sách vở mà thôi.
Tội nghiệp cho loài chim bé nhỏ, can trường, giàu lòng trắc ẩn và tình đồng loại
lại đang mất dần, mất dần…
Rời xã Chư Zang tôi còn nghe thấy tiếng kêu khắc khoải của con chim én tội
nghiệp vang vọng trong tâm. Không biết những người có trách nhiêïm nơi bản địa
có nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng ấy không? Hay họ chỉ còn nghe vấn vương mùi
thơm “đặc sản” của loài chim én.
Trước khi kết bài ký này, tôi mang đọc cho mấy người
bạn hàng xóm cùng nghe. Một người bạn có vẻ đắc ý cứ gật gù, gật gùø một chặp rồi
bất ngờ chỉ vào mặt tôi phán một câu tỉnh khô: “Anh đúng là người ngoài hành tinh”! Tôi giật mình hỏi: “Tại sao ông lại nói thế?” Anh ta mới thủng
thẳng trả lời: “Còn không đúng sao! Bây
giờ cần gì phải vất vả vào Chư Zang, xứ “khỉ ho cò gáy ấy” để xem chim én. Ngay
ở chợ Bình Minh thị trấn Ea Knốp này thôi, buổi sáng muốn mua bao nhiêu chim én
mà chẳng có. Ông không tin sáng mai ra xem”!
Có thể nói không ngoa, thị trấn Ea Knốp, huyện Ea Kar là thị trấn công nghiệp
đứng vào hàng lớn nhất nhì của tỉnh Đắk Lắk. Vậy người ta bán buôn loài chim quý
trái pháp luật như vậy mà vẫn tồn tại ở đây chăng? Không thể nào có chuyện đó xảy
ra được; tôi muốn tin như vậy. Thật không ngờ sáng hôm sau tôi theo người bạn
ra chợ Bình Minh và chứng kiến người ta bán bốn cái lồng đầy chim én to đùng
ngay tại hàng ga, mỗi lồng nhốt tới hàng ngàn con. Cô bán hàng đon đả: “Mua đi các anh, hôm nay có ít; không mua là
hết phần đấy”! Tôi ngao ngán đứng nhìn người ta đổ xô vào mua én; người mua
năm bảy chục, người trăm, hơn trăm con; song cũng có người mua đúng hai con. Tò
mò, tôi hỏi một người mua: “Sao anh mua ít
vậy?” Người mua, cười trả lời: “À, rẻ
quá chỉ 500 đồng một con, mua về cho bọn trẻ chơi.”
Thật buồn cho “sứ giả mùa xuân”; người ta sao mà vô tình đến vậy? Nhưng cũng
phải thôi, người bắt được chim bán 150 đồng một con và người chở én đi chưa đầy
40 km giá đã lên 500 đồng một con. Lãi to thật! Nhưng rồi sẽ ra sao én ơi! Nếu
người ta cứ vô tình bước qua pháp luật tự do bắt, bán, ăn nhậu én như thế này?
Mùa thu năm 1998
(Tiếng kêu chim én)
@Sự can thiệp thô bạo của bàn tay con người lên những cánh rừng nguyên sinh, khiến cho nhà văn không khỏi xót xa.
...Ngã ba rừng trắc ngày xưa nay được điểm xuyến bằng trụ sở Uỷ ban nhân dân xã
Ea Sô, trường học, trạm xá trông rất bề thế, khang trang và rừng trắc ngày xưa
cũng chìm vào dĩ vãng. Mới mấy năm thôi mà cả cánh rừng trắc đã không còn nữa.
Trước đây khi vào khu rừng Ea Sô để tìm kiếm “mô hình nông trường lạ”,
chúng tôi đã gặp hàng đoàn xe đạp thồ những cây trắc đẽo hết lớp giác ngoài
khoe khúc lõi đỏ au, còn hôm nay chỉ thấy nhà và rẫy.
...
Thế nhưng hôm nay ngày trở lại vùng đất xinh đẹp này, đập vào mắt chúng tôi
là những vùng đất bị cày, cuốc nham nhở đến sát tận bờ sông Hai. Thảm cỏ gianh
ngày xưa trải dài đến ngút cả tầm mắt còn đâu. Vượt qua chiếc cầu tạm bắc chênh
vênh qua dòng sông Hai đi thêm mấy chục mét nữa đã đến sân khu nhà làm việc của
Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô. Quả thật chúng tôi vô cùng ngạc nhiên
trước cơ ngơi khang trang, đẹp đẽ của khu nhà làm việc này và ngay trước mặt là
con đường nhựa bắt đầu từ đây kéo dài xuống thị xã Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên.
...
Chúng ta không sửng sốt sao được khi Nhà nước đổ tiền của vào đây xây dựng
Khu bảo tồn nhằm bảo vệ nguồn gien quí giá may mắn còn sót lại không chỉ ở Việt
Nam mà của cả thế giới, thế mà họ nỡ đang tâm chia nhau làm “điền trang thái ấp”
ngay trong lòng Khu bảo tồn. Thực chất của việc này thế nào? Nếu tính bắt đầu từ
khu nhà làm việc của Ban quản lý Khu bảo tồn xuống đến Hạt kiểm lâm, hai bên đường
nhựa có chỗ đã được trồng cây keo tai tượng, bạch đàn khá xanh tốt. Song khi lội
vào khu rừng trồng hai bên đường ta sẽ ngỡ ngàng trước chiều rộng của mỗi bên
chỉ trên dưới 30 mét mà thôi, còn phía trong chẳng có thêm gì nữa cả. Đi tiếp
qua trạm độ 2 km tôi thật sự giật mình khi thấy trải dài hai bên đường trồng toàn
khoai mỳ; khoai mỳ ở đây tốt thật, cây nào cây nấy mập mạp, lá xanh ngắt. Qua hết
rừng khoai mỳ độ 3km, trước mắt hiện lên những quả đồi trọc cày xới sạch tinh
không một cọng cỏ, trải dài đến hết tầm mắt. Chúng tôi tự hỏi chẳng lẽ đây là
Khu bảo tồn thiên nhiên hay sao? Họ giữ cái gì khi rừng bị cày xới ngang dọc trồng
khoai mỳ và chờ mùa mưa tới để trồng các loại cây ngắn ngày khác. Xa hơn chút đến
gần bờ sông Hinh, phần cuối của Khu bảo tồn được điểm xuyến bằng những bầy bò đủng
đỉnh theo nhau dạo bước. Những bầy bò đó là bò nhà chứ không phải bò rừng. Thế
ra Khu bảo tồn này lại có vùng “đặc dụng” của một số người dùng làm vườn, làm
trang trại phát triển kinh tế. Có lẽ nhờ “phép màu thần kỳ”,Khu bảo tồn thiên
nhiên bỗng chốc biến thành trang trại, tạo công ăn việc làm cho những người “thất
nghiệp”. Cũng theo ông Hạt trưởng kiểm lâm Ea Sô cho biết, mỗi trang trại thường
có từ bảy đến mười người làm việc, số người vào làm đều có báo cáo cho Hạt biết.
Vậy trong số mấy chục con người ở rải rác
trong khắp Khu bảo tồn ấy, ai có thể dám chắc là họ chỉ làm thuê cho chủ trang
trại chứ không tàn phá cây cối, săn bắt chim thú.
(Ea Sô sau những đêm động rừng
@Lối hành sử của con người như thế nào với thiên nhiên, thì tất yếu nhận được sự đáp trả của thiên nhiên như thế đó.
...
Dòng Krông H’Năng vẫn chảy, những ngôi nhà sập tường, tốc mái đã được dựng
lại; nhưng những vết thương thì còn lại mãi với những người thân, không dễõ gì
hàn gắn được. Thiên tai quả là khủng khiếp. Có phải do người dân chủ quan vì lâu
lắm rồi chưa ai thấy lũ lụt ghê gớm như thế xảy ra. Hay tại hệ thống cảnh báo của
chúng ta chưa tốt, không dự báo trước được những trận lũ quét lớn sẽ xảy ra!
Hay tại con người cạo trọc rừng xanh nên thiên nhiên giận dữ trút nước xuống, dồn
lại thành thác lũ trả thù con người!...
Vâng! Sau tai họa người ta đang mổ xẻ tìm ra nguyên nhân, từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm để tai họa không còn giáng xuống đầu người dân như thế nữa. Cơn
lũ đã đi qua, cuộc sống dần trở lại sự bình yên như vốn cóù. Điều đó ghi nhận sự
cố gắng rất lớn của Đảng, chính quyền xã Phú Xuân nói riêng và huyện Krông Năng
nói chung. Chúng ta tin và mong rằng với truyền thống tốt đẹp của người dân Việt
Nam
“lá lành đùm bọc lá rách”, người dân vùng lũ xã Phú Xuân sẽ gồng mình đứng lên
gây dựng lại cơ đồ tươi đẹp hơn những gì vừa bị dòng lũ cướp mất.
Tháng 8 năm
2007
(Nơi cơn lũ đi qua)
@Cảm thông với nỗi vất vả của các chiến sĩ bộ đội biên phòng khiến cho ngòi bút của Hồng Chiến cũng trào tuôn xúc cảm.
...
Đêm về khuya, trời nổi gió, sấm nổ đì đùng và những hạt mưa đầu mùa lắc rắc
rơi lên mái tôn. Gió gào thét cuốn theo những hòn đá ném lên mái tôn kêu loảng
xoảng. Vài phút sau mưa trút xuống xối xả như người ta dùng vòi nước mà đổ. Con
suối cạnh đồn khi chiều đi qua chỉ đọng vài vũng nước, giờ nổi cơn thịnh nộ gầm
rú như voi lồng. Tôi lên giường thao thức mãi không ngủ được. Vì nghề nghiệp, tôi
đi nhiều, dọc ngang gần khắp nước, nhưng chưa ở đâu khí hậu khắc nghiệt như vùng
biên giới này. Vừa nắng như thiêu như đốt, giờ lại đã thấy lạnh như mùa đông miền
Bắc, đắp chiếc chăn bông hầu như cũng chưa đủ ấm. Cũng vì nghề nghiệp, tôi đã ăn
cơm với các đơn vị quân đội khá nhiều, nhưng chưa nơi nào chiến sĩ liên lạc lại
ngồi ăn chung, cùng chỉ huy tiếp khách như trong một gia đình như thế này. Cách
xưng hô, cách xử sự của các anh nơi đây làm tôi thật bất ngờ. Có lẽ những người
lính nơi biên cương, tất cả đều là anh em một nhà, mái nhà chung là đồn. Sau những
ngày tuần tra, mật phục, vất vả, gian khổ, nhiều lúc ranh giới của cái sống và
cái chết mỏng manh như sợi tóc, các anh lại trở về nhà mình nghỉ ngơi, lấy lại
sức vài hôm để rồi lại lên đường tiếp tục làm nhiệm vụ. Tình cảm chân tình giữa
sĩ quan và chiến sĩ thương yêu nhau như anh em ruột thịt, đó có thể chính là sức
mạnh của bộ đội Cụ Hồ, của những người canh giữ biên cương mang lại bình yên
cho Tổ quốc.
(Ghi chép nơi biên cương).
@Chuyện kể về ông giám đốc sống trong ngôi nhà đơn sơ, nhưng những gì ông để lại cho xã hội không những là một khối gia tài lớn , mà còn là lòng nhiệt huyết và cái tâm trong công việc.
...
Câu chuyện của ông Nguyễn La Vân về quãng đời của mình
làm chúng tôi rất cảm động. Con người có vóc dáng mảnh khảnh, khuôn mặt cương
nghị, râu tóc bạc phơ này được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách
mạng ở thị xã Quảng Ngãi. Năm 1947, khi chưa đầy 14 tuổi ông bí mật “nhảy núi”
gia nhập quân đội, năm 16 tuổi được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1954 tập kết ra Bắc, năm 1958 chuyển ngành
qua Bộ Nông Trường, công tác tại Nông trường
1- 5 huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An, năm 1978 được bổ nhiệm làm Giám đốc Công ty Khai
hoang Cơ giới 4 phụ trách khu vực miền Trung và Tây Nguyên, năm 1993 về hưu. Tóm
tắt tiểu sử của ông thật ngắn gọn nhưng không hề đơn giản tí nào. Người con xứ Quảng có cuộc đời như một pho tiểu thuyết của
một vị anh hùng lại rất giản dị và đôn hậu. Qua câu chuyện của ông và anh em
trong công ty kể lại, tôi chỉ xin ghi lại đôi nét một quãng đời công tác đương
nhiệm giữ chức Giám đốc Công ty Khai hoang Cơ giới 4 của ông mà thôi.
...
Ông giám đốc già chuẩn bị nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, sức khỏe giảm sút
nhiều nhưng trong con người ông vẫn còn ngọn lửa cách mạng rực cháy như thời
trai trẻ. Thật mừng khi lớp cha anh đi trước là những con người tài năng, đặt nền
móng vững chắc cho lớp con em đi sau tiếp bước vào kỉ nguyên mới, thời đại mới,
trong xu thế hội nhập nhưng vẫn giữ được bản chất người bộ đội cụ Hồ.
(Chuyện của một vị giám đốc về hưu).
@Rồi chuyện về những người lính Sư đoàn 333, hôm qua họ cầm chắc tay súng trên mặt trận chiến đấu với kẻ thù, hôm nay họ là những người lính xuất sắc trên mặt trận kinh tế.
...
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12),
tôi liên hệ với Tổng Giám đốc Công ty Mía đường 333 để chuẩn bị cho anh em văn
nghệ sĩ xuống thực tế sáng tác. Tôi chọn công ty này vì đơn vị nguyên là những
người lính chiến đấu trong chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước;
hoà bình lập lại, các anh còn phải ngã xuống trong các trận đánh truy quét bọn
phản động Fulrô, mang lại cuộc sống thanh bình cho người dân Tây Nguyên; và hơn
nữa, tôi có nhiều kỉ niệm đẹp với sư đoàn làm kinh tế này.
...
Sư đoàn 333 được thành lập
tháng 10 năm 1976. Sư đoàn bộ đóng tại buôn Ea Knôp, huyện Krông Păc, tỉnh Đắk
Lắk. Đơn vị đóng quân trên địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Phú Khánh. Nhiệm vụ chủ
yếu của đơn vị: vừa làm kinh tế, vừa truy quét Fulrô, đảm bảo an ninh cho khu
vực. Năm 1985, tình hình an ninh ổn định, Sư đoàn được chuyển giao cho Bộ Nông
nghiệp và đổi tên thành Xí nghiệp liên hợp 333.
...
Theo quy luật, công nghiệp phát triển sẽ kéo theo
cuộc sống người dân trong vùng được nâng
lên. Quy luật là thế, nhưng nếu ta không tổ chức tốt sẽ chỉ có một bộ phận giàu
lên, còn không ít người lao động chân chính chỉ ở mức thoát nghèo. Những anh bộ
đội sư đoàn 333 năm xưa, nay là công nhân hay nông dân trên vùng quê mới, không
những đã đánh giặc giỏi mà còn biết làm kinh tế giỏi, dẫu rằng vẫn còn nhiều
khó khăn trước mắt. Nhưng chúng ta tin và hy vọng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và chính quyền địa phương, khó khăn nào rồi cũng sẽ vượt qua, sẽ có
bước phát triển vượt bậc, góp phần làm giàu cho một vùng quê nghèo, mang lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người nói chung và khu công nghiệp
mía đường 333 nói riêng.
(Những người lính hôm qua).
@Những kỉ niệm của ngày đầu tiên bước vào mảnh đất Tây Nguyên làm nhiệm vụ "Trồng người"luôn khắc sâu trong tâm khảm nhà văn.
… Ngày ấy đoàn giáo sinh Thanh Hoá được phân công về huyện M’Drắk gồm mười
chín người, trong đó riêng huyện Nông Cống đã có tới mười người, tám nam, hai nữ;
huyện Hoằng Hoá có ba người; huyện Nga Sơn
bốn người, huyện Quảng Xương hai người. Đến đón chúng tôi tại trường Trung học
sư phạm (hồi đó còn ở cạnh sân bay Hoà Bình), ông Lê Văn Phú, Trưởng ban giáo dục
huyện bắt tay từng người đưa lên chiếc xe khách thuê của hợp tác xã vận tải M’Đrắk
lên đón. Cả đoàn giáo sinh được đưa về trường cấp I - II Krông Zin ở tạm. Đây
nguyên là trường tiểu học thời Ngụy nên cơ sở vật chất còn tàm tạm; Ban Giáo dục
huyện cũng lấy hai phòng làm nơi ăn ở và làm việc. Những ngày đầu đến nhận công
tác tất cả anh em giáo viên đều ở chung, cùng ăn với cán bộ ban giáo dục. Ngày
ngày các thầy cô giáo lếch thếch cuốc bộ đến các buôn dân tộc người Ê Đê vận động
con em đến tuổi ra lớp học đặt ngay tại buôn.
Nhiều buôn cách xa nơi ở sáu, bảy ki-lô-mét nhưng ai cũng vui vì cuộc sống
tập thể và vì con nhà nông lần đầu tiên được làm thầy, làm cô… Thời ấy chưa ai
có xe đạp, nhưng hàng tháng, hàng quý vẫn được phân phối phụ tùng xe đạp (tiêu
chuẩn mà!). Cánh thanh niên không màng tới vì không biết lấy cái xăm, cái lốp
hay cái xích, cái đèn xe đạp để làm gì. Qua năm 1978, tình hình căng hơn do bọn
Fulrô hoạt động mạnh, các trường được thành lập thêm nên các thầy cô giáo cũng
phải chia tay nhau xuống các buôn lập lớp dạy học. Tôi vẫn ở lại trường cũ giảng
dạy, mặc dù phải đi bộ đến lớp cách xa nơi ở gần 5km.
Cuộc sống cứ bình lặng trôi đi, cái đói lúc đó là căn bệnh thường niên nhưng
từ nhỏ cho đến khi làm thầy giáo, bọn chúng tôi hầu như chưa bao giờ được bữa
no thì đói có là gì. Chỉ tội nghiệp hai cô bạn đồng hương cùng huyện ngày ngày
theo chúng tôi đi dạy đến trưa về măït cứ tái mét vì đói; các cô không dám ăn vặt
những thứ mà người dân trong buôn mang cho như cánh đàn ông. Khó khăn gian khổ
là vậy nhưng chúng tôi vẫn rất vui vẻ bên nhau và đặc biệt cán bộ huyện, ban giáo
dục và nhà trường sống với nhau như trong một gia đình, ấm cúng, vui vẻ.
Cuộc sống bỗng nhiên bị xáo trộn một cách đầy bất ngờ. Vào một đêm cuối tháng
ba, khoảng hơn 21 giờ, chúng tôi đang quây quần soạn bài, bỗng giật mình bởi tiếng
nổ chát chúa của đạn M72, rồi sau đó là tiếng M79, AR16 nổ như ngô rang, buôn
Dak cách trung tâm thị trấn M’Đắk khoảng 3km bốc cháy sáng cả góc trời. Tiếng đạn
cối của công an, huyện đội nã dồn dập nổ như pháo tết về phía sân bay chặn đường
rút của bọn Fulrô. Chúng tôi chạy ra hè nhà đứng nhìn về phía lửa cháy mà lòng đau
xót, lo lắng vô cùng; vì nơi đó chính là trường nội trú huyện mới được thành lập,
học sinh còn gửi ở tạm nhà dân, các thầy cô có hai căn nhà gianh vách che bằng
những tấm ghi lát sân bay, vừa làm nơi ăn chốn ở, vừa là nhà ăn cho các em học
sinh. Khoảng gần một tiếng sau, tiếng đạn nổ chỉ còn cầm chừng, chúng tôi chợt
thấy ba bóng người lảo đảo chạy vào sân trường. Cả bọn ùa ra hét ầm lên khi nhận
ra hai thầy và một cô giáo, không guốc dép, bàn chân tóe máu, quần áo bị rách lỗ
chỗ, vừa chạy thoát từ trường nội trú về. Cả ban giáo dục và cánh giáo viên ở tập
thể ôm chầm lấy các thầy cô, mắt ai cũng rưng rưng. Trong cái rủi có cái may,
toàn bộ buôn Dak bị thiêu rụi, 21 em học sinh bị thương, nhà hiệu trưởng, hiệu
phó đều trúng đạn bốc cháy, tài sản mất sạch; nhưng không ai chết cả. Đau xót
nhất khi chứng kiến cảnh một anh công an huyện và một trung uý quân đội bị bọn
Fulrô bắn nát người một cách dã man ngay trước cổng trường; nếu không có hai người
ấy thì tính mạng của hơn hai trăm thầy và trò
sẽ ra sao!
Sau trận đó, học sinh nhiều em bỏ chạy về buôn, không dám đến học nữa. Các
thầy cô, các ban ngành trong huyện lại phải đến từng nhà vận động các em đi học,
tìm mọi cách có thể để đưa các em về trường. Thời ấy có một vị lãnh đạo Ty giáo
dục Đắk Lắk từng nhấn mạnh: lấy số lượng
làm chất lượng. Chúng ta đưa được các em về trường là thắng lợi. Ngày ấy người
dân còn cực khổ lắm, bữa đói bữa no; nhiều gia đình còn phải ăn khoai mài đào
trong rừng thay cơm. Các em đến trường học được cấp quần áo, chăn màn, giày dép,
sách vở và ngày ba bữa ăn dù cơm còn phải độn thêm bắp, khoai nhưng không bao
giờ bị đói; vậy mà vận động các em đến trường cũng vô cùng cực nhọc.
Đầu tháng 7 năm 1979 Ủy ban nhân dâân huyện M’Đrắk có chủ trương thành lập
trường nội trú tại các xã, vì thế tôi được cử về xã Ea Trang, xã cuối cùng của
huyện, giáp với tỉnh Phú Khánh, để chỉ đạo xây dựng trường kịp khai giảng năm học
mới. Cả xã Ea Trang lúc bấy giờ chỉ có một hộ gia đình người Kinh làm nghề thầy
cúng với bốn khẩu, còn lại là người dân tộc Ê Đê. Đi suốt chiều dài của xã theo
quốc lộ 21 (sau này đổi tên quốc lộ 26A) hơn 30 km không tìm đâu được đám đất bằng
khoảng một hecta để dựng trường; cuối cùng phải chọn đỉnh một ngọn đồi ngay tại
thôn Hai, đối diện với trạm kiểm soát Phượng Hoàng của công an huyện, bên cạnh
quốc lộ 21 để dựng trường. Tôi cùng với anh Chế Đình Đống - Trung úy quân đội
người Nghệ Tĩnh tăng cường về làm Bí thư xã - vận động nhân dân đốn cột, cắt
gianh, dựng được 8 phòng học, nhà kho, nhà ăn, nhà ở cho học sinh. Tuy nhà
gianh vách nứa nhưng cao ráo, thoáng mát không
thua kém bất kì ngôi nhà nào ở quê nghèo xứ Thanh tôi. Ngày khai trường, Ông Y
Din - Chủ tịch huyện và ông Trưởng ban giáo dục Lê Văn Phú, cứ tấm tắc khen mãi.
Có lẽ tôi “mát tay” làm phong trào nên bàn giao công trình xong, các ông lại điều
tôi về trường nội trú xã Krông Zin, một trường còn xây dựng dang dở mà vẫn phải
khai giảng…
Có lẽ tại cái số xây dựng xong cơ sở vật chất, tôi được ở lại trường phụ trách
lao động. Thời ấy tiêu chuẩn học sinh nội trú tương đối cao, mỗi em hàng tháng được
cấp 15 kg lương thực, quần áo, chăn màn và tiền tiêu vặt, nhưng nhiều em vẫn bỏ
học không chịu đến trường. Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, lương thực rất
khan hiếm, nhiều nơi phải cấp lương thực bằng đậu xanh, hạt mạch thay thế. Vì vậy
huyện tổ chức khai hoang trồng khoai mì, học sinh nội trú cũng được điều động đi
khai hoang. Trường nội trú Krông Zin được phân công cuốc đất trên một quả đồi
phía sau trạm kiểm soát Khánh Dương. Buổi sáng hôm ấy, tôi cùng các em học sinh
mải mê cuốc đất đến gần trưa, em Y Đoan lại bên tôi nói: Thầy nghỉ lại uống nước, để em làm cho! Tôi đưa cuốc cho Y Đoan và đi
lại bên đường quốc lộ 21 để uống nước. Đi chưa được năm chục mét, bỗng tôi nghe
một tiếng nổ lớn, giật mình quay lại; ngay chỗ tôi đứng cuốc lúc nãy, một cột
khói đen bốc lên, bảy em học sinh đang quằn quại trên mặt đất. Tôi lao lại chỗ
Y Đoan, em nằm bất tỉnh; mặt xạm đen vì khói thuốc; bụng, tay máu phun ra thành
dòng. Cô Nguyễn Thị Hồng chạy lại cởi khăn đưa cho tôi buộc lại vết thương cho
Y Đoan. Các thầy cô và nhân viên y tế của trường xúm lại băng bó cho các em bị
thương. Có em hoảng quá vừa chạy vừa khóc, máu chảy thành dòng trên mặt đất. Các
thầy phải chạy theo giữ lại để băng bó. Khi xe đưa các em lên viện cấp cứu rồi,
tôi lại chỗ Y Đoan nằm thấy lưỡi cuốc con gà Trung Quốc bị xé nát, mặt đất thủng
một lỗ lớn như chiếc mẹt. Vô tình tôi đã để Y Đoan gánh thay trọn vẹn một quả mìn.
Cũng may, nhờ cấp cứu kịp thời tất cả các em chỉ bị thương, không ai chết cả.
Riêng Y Đoan nhờ lưỡi cuốc chắn mãnh đạn nên chỉ bị thương nặng. Vậy là để những
người học trò bé nhỏ ở huyện M’Đrắk đến được với cái chữ, không những thầy cô
giáo mà cả học sinh đã phải đánh đổi bằng chính xương máu của mình.
(Gian nan đường đến cái chữ).
@Vấn đề trường học bao giờ cũng được Hồng Chiến quan tâm hàng đầu.
...
Theo như Hiệu trưởng Nguyễn Xuân Việt trao đổi với tôi
thì thuận lợi cơ bản của nhà trường là xây dựng được tập thể Hội đồng sư phạm đoàn
kết, dân chủ, tôn trọng lẫn nhau, đó là nguyên nhân chính dẫn tới thành công. Bên
cạnh đó còn có sự quan tâm đặc biệt của Phòng giáo dục huyện, Đảng uỷ và chính
quyền xã Phú Xuân trong mọi hoạt động của nhà trường. Chính nhờ sự quan tâm ấy
mà hiện nay khuôn viên của trường được mở rộng, cấp trên đánh giá là rộng và đẹp
nhất huyện, đạt chuẩn quốc gia. Sự đầu tư về cơ sở vật chất cho công tác dạy và
học của nhà trường trong các năm vừa qua tương đối đồng bộ. Ngoài ra, Công ty Cà
phê 49 - nơi trường đóng, cũng có chính sách ưu tiên với toàn thể anh chị em cán
bộ công nhân viên của cả ba cấp học đóng trên địa bàn công ty; đây cũng là nguồn
động viên rất lớn đối với những người được cử vào đây công tác. Như sợ tôi không
tin, các anh mời tôi tới khu làng giáo viên. Quả thật tôi rất bất ngờ khi thấy
con đường rải nhựa phẳng lì nối từ nhà làm việc của Công ty Cà phê 49 tới cổng
trường Tiểu học Võ Thị Sáu dài gần một ki-lô-mét, hai bên đường được phân lô, mỗi
lô rộng 8m, dài 20m cấp cho các cán bộ, giáo viên đang công tác trong các trường
đóng trên địa bàn Công ty. Thầy Nguyễn Văn Hiệp nói thêm: Nhiều người mới về trường,
chưa lập gia đình, công ty vẫn ưu tiên nhượng lại đất như các hộ gia đình giáo
viên công tác lâu năm ở đây. Cán bộ giáo viên trường Nguyễn Tất Thành chỉ có một
trường hợp giáo viên vừa về nhận công tác đầu năm học này là chưa có đất, còn lại
ai cũng có đất làm nhà, dù đang độc thân, chưa có gia đình.
Có thể
thấy đây là một cách giữ người hết sức khéo léo của lãnh đạo Công ty Cà phê 49,
họ đã làm đúng như cha ông từng khuyên: muốn
con hay chữ thì yêu lấy thầy! Nhưng ở đây không những yêu mà còn tìm cách
giữ lại, muốn các thầy cô gắn chặt cuộc sống, sự nghiệp của mình với vùng đất và
con người nơi đây. Tận mắt nhìn những ngôi
nhà đã xây và đang xây dang dở của làng giáo viên, lòng tôi bỗng thấy nao nao,
giá như nơi nào cũng như Công ty Cà phê 49 quan tâm đến cuộc sống của các thầy
cô như thế, chắc chắn sự nghiệp giáo dục của chúng ta sẽ có bước tiến vượt bậc.
(Có một ngôi trường như thế ).
@Cho dù Hồng Chiến đề cập đến rất nhiều chuyện, nhưng người đọc dễ nhận ra tính thời sự nổi lên trước hết. Nó thể hiện ở trong cách trình bày vấn đề, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia - một vấn đề được xã hội hết sức quan tâm. Điều đặc biệt hơn là tác giả cũng chính là người đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề đó.
...
Cầm tờ giấy mời về dự lễ đón Bằng công nhận Trường đạt chuẩn quốc gia, lòng tôi bồi hồi xúc động. Thế là đã hơn
22 năm rồi. Thời gian trôi đi nhanh quá. Ngày 10 tháng 8 năm 1986, thầy Vũ Thế
Hiển - Trưởng phòng giáo dục, mời tôi lên trao quyết định của Ủy ban nhân dân
huyện Ea Kar thành lập Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Văn Trỗi đóng trên địa bàn
Nông trường 52 và bổ nhiệm tôi làm Hiệu trưởng cùng hai Hiệu phó: Nguyễn Thị
Thanh Hương - phụ trách chuyên môn cấp II và Nguyễn Thị Thanh - phụ trách
chuyên môn cấp I. Thời bấy giờ Trường Phổ thông cơ sở bao gồm cả mẫu giáo, cấp
I và cấp II. Cơ sở vật chất của trường tuy mới thành lập nhưng so với các
trường khác trong toàn huyện không nhất
cũng nhì. Được Nông trường 52 đầu tư xây dựng, nên ngoài sáu phòng học xây
cấp bốn, mái ngói đỏ tươi, các phòng học khác đều được lợp tôn, thưng ván; bàn ghế học sinh, giáo viên được trang bị đầy
đủ theo yêu cầu. Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc Nông trường 52 thời ấy đã nói với
tôi: “Mình lo nhất là con em công nhân đi
học xa vất vả, mong có được ngôi trường ở gần để các cháu có điều kiện theo
học. Có văn hóa mới có tri thức để nhận thức đúng và làm việc tốt hơn. Công
nhân có thể vất vả thêm một tí, nhưng con cái được học hành đến nơi đến chốn
thì họ sẽ an tâm công tác. Thầy xem có cần gì cứ đề xuất, nếu Nông trường giúp
được gì sẽ giúp”!
Phòng làm việc của Hiệu trưởng chung tường với phòng họp
hội đồng, rộng 3,5m, dài 5,5m; được trang bị bàn ghế, tủ hồ sơ đóng bằng gỗ
hương; ấm, chén, phích nước Trung Quốc mới tinh. Trong thời gian ấy nhiều
trường ở huyện Ea Kar, học sinh phải học trong các phòng tạm bợ mái gianh, vách
đất, bàn ghế đóng bằng những tấm bìa gỗ hoặc hai cây tre ghép lại, ban giám hiệu có trường phải ở tạm nhà dân,
không có chỗ làm việc. Tôi thấy mình có cơ ngơi như vậy là quý lắm rồi nên chỉ
đề xuất: “Nếu được, anh cho trường 10 ngàn đồng mua cho anh em ở tập thể một tay
lưới đánh cá cải thiện”. Khi ấy các hồ chứa nước của nông trường thả cá rô
phi nhiều lắm, ai muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Ông Giám đốc cười: “Thế thôi à! Thầy cho người sang phòng Tài vụ
nhận 15 ngàn đồng, mai tôi cho xe chở
lên Buôn Ma Thuột mua luôn”. Nhờ
có tay lưới ấy hơn chục cán bộ giáo viên trường ở tập thể đỡ phải mua thức ăn.
Chiều chiều, sau khi tan trường, khu tập thể chỉ để lại hai người nấu ăn, số
còn lại kéo nhau đi thả lưới, bắt ốc. Nửa giờ sau thu lưới, hôm ít cũng được
vài ký, hôm nhiều phải năm sáu ký. Bữa cơm nào cũng có ít nhất ba món cá:
chiên, kho, canh chua; hôm nào các thầy cô siêng một chút có thêm món ốc xào chuối.
Thời bao cấp ngày ấy có cuộc sống vật chất như vậy quả là nhiều trường mơ cũng
không được. Đầu tháng 10, ông Giám đốc Cao Văn Hùng đến văn phòng nói với tôi: “Ăn thế nào
làm thế ấy! Ăn cơm dạy cơm, ăn khoai dạy khoai. Người ta lo chạy ăn từng bữa
làm sao dạy chất lượng được. Tôi đã bàn với Đảng ủy và Ban giám đốc rồi, Nông
trường sẽ cấp cho mỗi thầy cô 500m2 đất làm nhà ở khu phía sau
trường, gần suối thuận tiện sinh hoạt. An cư mới lạc nghiệp được. Mời thầy đi
xem”.
Có lẽ làng giáo viên đầu tiên của
huyện Ea Kar đã ra đời như vậy. Ngẫm ra cái ông Giám đốc Cao Văn Hùng, nguyên
là Trung đoàn trưởng quân đội nói chí phải. Từ thực tế các phong trào Trường Phổ
thông cơ sở Nguyễn Văn Trỗi qua từng năm tháng là một minh chứng cho nhận xét
mộc mạc nhưng thật đúng của ông. Vì công việc tổ chức phân công, thời gian sau
tôi chuyển công tác đi nơi khác nhưng những kỷ niệm ngày đầu thành lập trường
còn in đậm trong tim.
(Những cánh chim không mỏi).
@Từ một chuyến đi công tác đã cho tác giả nhiều trải nghiệm.
...
Tôi thật bất ngờ trước cách tiếp đón của gia đình. Về một buôn người Êđê được
chứng kiến vườn, nhà, tiện nghi sinh hoạt và cả phong cách sống như người thành
thị, không ngạc nhiên sao được. Cuộc sống mới mà Đảng và Nhà nước mang lại làm đổi
thay vùng đất Tây Nguyên giàu đẹp này. Sự thay đổi ấy diễn ra trong từng ngôi
nhà, từng con người, từng phong cách sống, giao tiếp. Ba anh em vừa lai rai vừa
tâm sự. Qua câu chuyện, tôi biết anh chủ nhà tên Y Tâm, quê tận thành phố Buôn Ma Thuột “bị” vợ bắt về đây.
Cuộc sống khi hai người mới lấy nhau vô cùng cơ cực. Vùng đất trù phú ngày nay,
xưa kia là những cánh rừng nối tiếp nhau chạy dài đến hết cả tầm mắt. Sau giải
phóng đồng bào lập hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng cuộc sống mới, biến mảnh đất
hoang vu thành mảnh đất thanh bình đầm ấm, cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc.
Thật khó tin một hộ gia đình người dân tộc bản địa, không những đủ ăn, có đầy đủ
tiện nghi sinh hoạt hiện đại, mà sáu đứa con đều được học hành tử tế. Cô gái đầu
có cái tên rất đẹp H’HaNa đang học năm thứ ba tại trường đại học Đà Lạt, cô thứ
hai H’Vêra học xong lớp mười hai dứt khoát ở nhà ôn thêm năm nữa để thi vào đại
học, chứ nhất định không đi học trung cấp; cậu thứ ba Y Za Nai học lớp mười một
và cô thứ tư - H’Biểu học lớp mười, tại Trường nội trú Ama Trang Lơng, cô thứ năm
H’Nhai học lớp chín và cậu út Y Thiêu học lớp tám gần nhà. Đoán được sự băn khoăn
của tôi trước cuộc sống có phần sung túc của gia đình, Y Tâm cho biết thêm: “Mình từng làm cán bộ Công ty Bông Đắk Lắk, vận
động nhân dân trong vùng trồng bông, góp phần giúp nhiều hộ gia đình nâng cao
thu nhập, phá thế độc canh trước đây chỉ trông chờ vào ba cây trồng chính là lúa,
bắp và cà phê. Còn bây giờ cây nông nghiệp được trồng đa dạng, nhiều loại giống
mới được nhân dân đưa vào trồng, có năng suất cao góp phần làm giàu cho người dân
trong vùng. Sắp tới đập Krông Buk Hạ hoàn thành, nhiều cánh đồng lúa trước đây
chỉ trồng một vụ sẽ được thâm canh tăng lên hai, ba vụ, thu nhập của nhân dân
trong vùng được nâng cao hơn nữa. Do kinh tế phát triển, người dân giàu lên,
nhu cầu mua sắm cũng tăng cao nên ngày nay nhiều hộ bung ra mở tiệm buôn bán, phục vụ nhu cầu bà con không chỉ ở trong buôn
mà vươn ra cả các vùng lân cận”.
Trời về chiều, tiếng công nông nối nhau gầm rú chở bắp, chở cà phê vừa thu
hoạch về buôn. Nhà nào vào thời điểm này cũng thấy để trước sân từng đống bắp
cao như núi, mảnh sân trước nhà rải kín cà phê. Nhìn từng đoàn xe tấp nập chạy
về, trên xe chất đầy các bao tải vừa thu hoạch; ngồi vắt vẻo trên đống bao bì đó
là những người với khuôn mặt rạng rỡ, miệng nở nụ cười tươi, lòng tôi cảm thấy
vui vui vì biết đó là dấu hiệu của một vụ mùa bội thu. Đời sống đã thực sự thay
đổi trước ngưỡng cửa của một năm mới sắp về.
Giờ đây cuộc sống của đa số người dân buôn Puăn A không những đủ ăn, có của
để dành, xây dựng được những ngôi nhà khang trang, mà nhiều hộ đã trở nên giàu
có. Nhiều nhà không những sắm đầy đủ tiện nghi phục vụ sinh hoạt gia đình, còn
mua được máy móc phục vụ sản xuất, tăng năng suất lao động. Theo Y Tâm, cái
quan trọng nhất để nâng cao mức sống cho bà con dân tộc nơi đây là tạo điều kiện
và chỉ cho người dân biết cách làm giàu, chứ không phải cầm tay dắt người ta
theo đi làm giàu, cho người ta tiền để người ta giàu. Ý tưởng như một triết lý
ngẫm ra lại đúng. Người dân áp dụng khoa học để phát triển nền sản xuất hàng hóa,
xoá đi nền sản xuất tự cung, tự cấp. Cơ chế thị trường đã và đang trực tiếp tác
động đến đời sống người dân nơi đây. Cái được lớn nhất là đời sống đa số hộ được
cải thiện và nâng cao, con em được học hành, đời sống dân trí được mở mang; song
bên cạnh đó cái mất cũng rất đáng quan tâm như nhiều thanh niên bây giờ chỉ thích
uống rượu, hát kraôkê mà quên đi truyền thống dân tộc, thậm chí không biết cả cách
đánh chiêng của dân tộc. Ông Y Tó buôn trưởng thở dài và nói thêm: “Anh về trên ấùy đề nghị với chị Linh Nga cho
người về dạy cho cánh thanh niên học đánh chiêng với, chiêng còn đấy nhưng bọn
trẻ quên hết rồi”.
Nỗi trăn trở của buôn trưởng cũng đúng thôi, cồng chiêng Tây Nguyên cha ông
bao đời để lại được cả thế giới công nhận là “Văn hoá phi vật thể, kiệt tác của nhân loại” vậy mà người dân bản địa
lại quên, không biết đến thì quả là có lỗi. Nhưng khôi phục lại như thế nào thì
một mình buôn trưởng với Hội Văn hóa nghệ thuật Đắk Lắk không thể làm nổi, mà
phải có sự đồng bộ của các cấp chính quyền cũng như cơ quan chuyên môn mà trực
tiếp phải là phòng Văn hóa thông tin huyện. Là người dân tộc Ê Đê, có trong tay
cả bộ chiêng quý giá mà không biết sử dụng thì đáng tiếc lắm thay. Thiết tưởng
các cơ quan lãnh đạo văn hoá địa phương cần suy nghĩ nghiêm túc vấn đề này.
Cái may cho phong trào ở đây, cán bộ địa phương còn muốn giữ lại truyền thống
văn hoá dân tộc, còn trăn trở với bản sắc dân tộc đang ngày môït mai một mà tìm
cách khôi phục lại. Với tấm lòng vì dân, vì phong trào như thế, tôi tin một ngày
không xa các buôn người dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung và buôn Puăn A nói
riêng không chỉ nhà cửa khang trang, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình hiện đại,
mà sẽ còn rộn rã tiếng chiêng trong những ngày lễ hội truyền thống.
Tháng 10 năm 2006
(Những đổi thay trên một vùng đất).
@Sự quan tâm của chính quyền đại phương luôn là điểm tựa vững chắc về đời sống tinh thần cho nhân dân.
...
Chuẩn bị kỷ niệm 25 năm ngày thành lập huyện Cư
M’gar (23/01/1984 - 23/01/2009), huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân
huyện phối hợp với Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk mở trại sáng tác văn
nghệ tại địa phương, nhằm tạo điều kiện cho các nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ có dịp
tận mắt chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh cũng như tiềm năng to lớn về du
lịch nơi đây, đồng thời chứng kiến cuộc sống mới của người dân đang ngày một khởi
sắc. Cách làm này của lãnh đạo Đảng - chính quyền huyện Cư M’gar ngay sau khi Bộ
chính trị ban hành Nghị quyết 23 về văn học - nghệ thuật đã thể hiện sự nhanh
nhạy của địa phương khi thực hiện nghị quyết, ghi dấu ấn quan trọng của văn nghệ
đối với đời sống tinh thần xã hội.
...
Trong tiếng chiêng rộn ràng, chủ nhà mời khách cùng múa hát quanh bếp lửa và
thưởng thức rượu cần. Tiếng chiêng, tiếng hát ngân dài xuyên qua màn đêm, xua
tan đi cơn mưa dầm rả rích. Ngôi nhà sàn rộng là vậy mà vẫn cảm thấy chật chội
vì già trẻ, gái trai cả làng kéo đến chung vui. Thật mừng cho một vùng đất trù
phú, kinh tế phát triển lại có 26 dân tộc anh em ở khắp mọi miền đất nước về đây
sinh sống, chung tay xây dựng cuộc đời. Và, càng mừng hơn khi thấy bản sắc văn
hóa của từng dân tộc vẫn tồn tại và phát triển. Điều gì làm nên kì diệu cho vùng
đất này như vậy? Có lẽ đó chính là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và
chính quyền địa phương nơi đây. Cách đây hơn mười năm về trước, ông Trưởng phòng
Văn hóa - Thông tin huyện Cư M’gar Lê Đức Thắng (bây giờ đương chức Phó Chủ tịch
huyện), lên gặp nhà thơ Hữu Chỉnh - Chủ tịch Hội văn học - nghệ thuật Đắk Lắk lúc
bấy giờ để đặt vấn đề mở trại sáng tác văn học cho các cháu thiếu niên nhân dịp
hè. Nhà thơ Hữu Chỉnh hoan nghênh ý tưởng mới mẻ đó và tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ để Phòng Văn hóa - thông tin huyện tổ chức thành công trại viết đầu tiên
do Hội văn học - nghệ thuâït Đắk Lắk đỡ đầu. Hơn chục năm qua, có lẽ trên khắp
mọi miền đất nước chưa có nơi nào làm được như huyện Cư M’gar: cứ mỗi độ hè về
lại tổ chức mở trại sáng tác thơ văn cho các cháu thiếu niên đang là học sinh
phổ thông có năng khiếu văn học; và khi trại hè kết thúc, các tác phẩm dự trại được
tuyển chọn in thành tập Núi hoa. Từ cách nhìn nhận vấn đề đến cách thực hiện ý tưởng táo bạo, sát
với tình hình thực tế như vậy nên phong trào văn nghệ của huyện luôn gặt hái những
thành tích đáng tự hào qua các cuộc thi do tỉnh tổ chức. Cũng từ những trại sáng
tác hè đã ươm mầm cho nhiều thế hệ trở
thành những nhà báo, nhà giáo dạy giỏi văn. Thế mới biết, cái quan trọng là ở
người lãnh đạo; họ biết nhìn xa trông rộng, áp dụng các chủ trương, nghị quyết
vào cuộc sống một cách thiết thực có sáng tạo sẽ tạo dựng được một phong trào sâu
rộng và bền vững, góp phần quyết định làm giàu mạnh và phồn vinh cho cả vùng đất.
Sau hai mươi lăm năm thành lập, đến hôm nay Đảng bộ và nhân dân huyện Cư
M’gar có thể tự hào đã xây dựng được một vùng đất mạnh về kinh tế, vững về an ninh - quốc phòng và đời sống văn hóa - giáo
dục ngày một phát triển đúng theo chủ trương nghị quyết của Đảng đã vạch ra. Từ
vùng quê khí hậu khắùc nghiệt nhưng con người đã biết cải tạo biến nó thành trù
phú phục vụ con người, mang lại hiệu quả tốt
đẹp. Có người nói: Thủ trưởng nào phong trào ấy - quả đúng không sai! Vùng
đất của huyện Cư M’gar (tên gọi theo tiếng dân tộc Ê Đê - dịch qua tiếng phổ thông
Cư là núi, M’gar là hoa; Cư M’gar có nghĩa là
Núi Hoa) của tỉnh Đắk Lắk không những
kinh tế phát triển, cuộc sống nhân dân ngày một giàu lên theo năm tháng
của công cuộc đổi mới và bên cạnh đó đời sống văn hóa - giáo dục cũng ngày một nâng cao là do có sự lãnh đạo sáng suốt của
các cấp ủy Đảng cũng như chính quyền địa phương; nhưng không thể thiếu
những cá nhân suất sắc, dám nghĩ dám làm đã góp phần bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc anh em trên
vùng đất Tây Nguyên. Hai mươi năm chưa phải là dài, nhưng cũng đủ để khẳng định
một hướng đi đúng, một cách làm sáng tạo của một tập thể đoàn kết, biết dựa vào dân và phát huy bản chất tốt đẹp của người Việt
Nam.
Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk
là một điểm sáng trong thời kỳ đổi mới để nhiều địa phương trong cả nước học tập.
(Chuyện của Núi hoa).
@Nếu như ai đã từng đọc các tác phẩm trước đây của nhà văn Hồng Chiến , và lần này đọc Tiếng kêu chim én, người ta dễ nhận đặc điểm của một phong cách có thế nói đã ổn định, mà vào ở độ tuổi của tác giả bây giờ, khó có thể thay đổi được. Phong cách ấy thể hiện ở nhiều phương diện. Đó là một thứ văn đậm đặc những sự kiện của hơi thở cuộc sống. Đó là những tình huống thường xuyên tạo ra những cao trào, những xung đột, giàu tính tự sự, làm cho người đọc cảm thấy bớt đơn điệu, tò mò hơn, hứng thú hơn khi theo dõi những câu chuyện ký rất nhiều tình tiết.
...
Vào một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi rời Buôn Ma
Thuột, xuôi theo quốc lộ 26A về phía thành phố Nha Trang - tỉnh Khánh Hòa; không
khí mát mẻ vì đêm qua trời đổ cơn mưa khá lớn. Mùa này Đắk Lắk có mưa như trời cho nhà nông thêm
vàng, cà phê không phải tưới, ruộng rẫy thoát khỏi khô hạn. Tới km 61 thuộc địa
phận huyện Ea Kar, xe rẽ trái vào con đường đất rất khó đi, đầy “ổ voi ổ trâu”
và một thứ mùi khó chịu ập vào xe. Nhà thơ Lê Vĩnh Tài ngồi bên tôi vội nói: “Đóng cửa xe lại để bật máy lạnh”. Nghệ sỹ
nhiếp ảnh - nhà thơ Đặng Bá Tiến cười buồn: “Chúng ta đến địa phận Nhà máy tinh bột mỳ Ea Kar rồi đấy. Ngày cắt băng
khánh thành rất đông quan khách về dự, sau buổi lễ ông Giám đốc Nghiêm Minh Tiến
mời tất cả ở lại nhà máy dùng bữa cơm thân mật, nhưng nhiều người vội vã ra xe
về ngay vì cái mùi đặc trưng này”.
Mọi người ồ lên ngạc nhiên.
Vượt cầu Krông Năng, nhà máy tinh bột mỳ xây khá bề
thế hiện ra qua khung cửa kính. Nhờ có nhà máy này mà nhiều hộ nông dân của các
huyện Ea Kar, M’Đrăk, Krông Năng thoát khỏi đói nghèo; nhưng những người dân
xung quanh khu vực nhà máy đang phải gánh chịu sự ô nhiễm môi trường khá nặng;
không biết đến bao giờ mới cải thiện được. Qua nhà máy tinh bột mỳ, nhà thơ Hoàng
Thiên Nga thông báo: “Chúng ta sắp vào
Khu Bảo tồn thiên nhiên Ea Sô”. Mọi người ồn ào cả lên vì địa danh nổi tiếng
qua vụ án săn động vật quý hiếm của ông Đại Hùng bị Hạt kiểm lâm khu bảo tồn Ea
Sô bắt năm 2003. Vụ săn bắn hai con Min trong khu bảo tồn làm tốn không ít giấy
mực của cánh báo chí. Vụ án kết thúc, kẻ phạm pháp dù đương chức là giám đốc một
sở của thành phố lớn hay là đại gia cũng phải cùng nhau ra trước vành móng ngựa.
Luật pháp được thực thi.
Còn tôi vốn là dân gần như “bản địa”
ở đây (vì có hơn 20 năm sống và công tác tại huyện Ea Kar), trong những năm từ
1987 đến 1992 khi chờ tòa án tối cao xét xử trả lại công bằng; vì mưu sinh, tôi
đã lội khắp các cánh rừng của huyện Ea Kar. Trong một lần vào đồi Cô Đơn, tôi gặp
một con vật: đầu trâu, chân bò, to như con voi; anh bạn cùng đi là sỹ quan ban
tuyên huấn Sư 333 bảo: “Bò xám” đấy! Tôi về viết một mẩu tin gửi báo Tiền
Phong, không ngờ một mẩu tin ngắn hơn 100 từ đã làm chấn động giới khoa học
trong nước, mấy hôm sau Viện trưởng Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Giáo
sư - Tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh và Phó Giáo sư - Phó Tiến sĩ Lê Vũ Khôi, lặn lội từ
Hà Nội vào tận nhà hỏi thăm và nhờ dẫn đường vào rừng Ea Sô tìm bò xám. Sau một
tuần lang thang trong rừng, vị giáo sư khả kính tóc bạc trắng, tuổi gần bảy mươi
nói với tôi: Căn cứ vào các dấu chân đo được trong rừng, nhiều khả năng đây là
dấu chân bò xám vì nó to hơn và tròn hơn so với dấu chân min. Sau đó giáo sư cóù
bản báo cáo khá chi tiết gửi cho Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar và Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Lắk, đánh giá của mình về khu rừng này. Qua trò chuyện với giáo sư -
tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh, tôi mới biết vài nét về con vật mang tên bò xám: bò xám
hay còn gọi bò kyprei (tên khoa học Bos sauveli) là con vật đầu trâu, mình bò,
thân hình to lớn, con trưởng thành có thể nặng từ 2,5 đến 3 tấn; được một nhà
khoa học Pháp phát hiện và chụp ảnh lần cuối cùng vào năm 1930 trên đất Căm-pu-chia
và từ đó đến nay không ai còn nhìn thấy nó nữa; giới khoa học nghi đã bị tuyệt
chủng. Còn con min, có nơi gọi bò tót (tên
khoa học Bos gaurus) đầu có đốm trắng, bốn cẳng chân trắng, bộ lông màu hung
hung đỏ, trọng lượng nhỏ hơn khoảng 1 đến 1,5 tấn, có tên trong sách đỏ Việt
Nam thuộc nhóm A, đây là loại động vật quý hiếm. Khoảng hai tháng sau khi Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh về Hà Nội,
một đoàn 7 nhà khoa học các nước: Vương quốc Anh, Vương quốc Căm-pu-chia và Việt
Nam đã vào rừng Ea Sô điều tra; sau một tháng làm việc, đoàn kết luận không có
bò xám nhưng đây là khu rừng đa hệ sinh thái cần được bảo vệ nên đề nghị và được
cấp trên chấp nhận. Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô đã ra đời như vậy.
Xe chúng tôi vượt cầu sông Hai, chạy qua khu nhà làm
việc của Ban quản lý khu bảo tồn được xây dựng khá khang trang. Con đường tỉnh
lộ nối hai tỉnh Phú Yên - Đắk Lắk chạy qua Khu bảo tồn thiên
nhiên Ea Sô, phần đường từ sau cầu sông Hai xuôi thành phố Tuy Hòa làm khá tốt.
Phía bắc đường được trồng khá nhiều cây keo tai tượng cao quá đầu người, phía
nam ngay sát đường là những đám rẫy gieo mè xanh mơn mởn. Nhà thơ Đinh Thị Như
Thúy ngạc nhiên hỏi: “Sao Khu bảo tồn thiên
nhiên lại gieo mè nhiều thế?”. Câu hỏi của Thúy làm mọi người lặng đi vì thực
tế đang được thấy và không biết phải trả lời như thế nào. Cuối địa phận tỉnh Đắk Lắk, công trình thủy điện Krông H’Năng có vị trí gần đường
đang hối hả thi công, con đập chính ngăn nước sắp hoàn thành, xe tấp nập nối đuôi
nhau xuôi ngược. Bức tranh công nghiệp khai thác “vàng trắng” đang thực thi ở đây
đã sắp hoàn chỉnh, nhưng một phần Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô sẽ bị ngập nước,
một diện tích không nhỏ đất đai sẽ chìm dưới lòng hồ; đây cũng chính là nỗi băn
khoăn của nhiều văn nghệ sĩ Đắk Lắk khi cho rằng: chúng ta ồ
ạt xây dựng các nhà máy thủy điện, liệu có tính đến một diện tích đất đai rất lớn
chìm dưới lòng hồ, hiệu quả kinh tế về lâu dài như vậy có khả quan không?
Gần 12 giờ trưa chúng tôi đến thành phố Tuy Hòa, nhà
văn Huỳnh Thạch Thảo - Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên, Tổng biên tập
Tạp chí Văn nghệ Phú Yên đón chúng tôi đưa về khách sạn Công đoàn. Tôi không ngờ
nhà văn trẻ này lại có nét phong trần đến thế, tuổi còn kém tôi xa, nhưng tóc đã
bạc quá nửa. Anh khác hình ảnh mà tôi đã hình dung qua những lần trao đổi điện
thoại. Sau bữa cơm thân mật do Hội chiêu đãi, chúng tôi kéo nhau về văn phòng Hội.
Đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk nhiều người ngạc nhiên như không thể
tin ngôi nhà ba tầng đồ sộ được xây ngay sát biển là trụ sở của Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh. Căn nhà đẹp quá, vị trí cũng thật lí tưởng: một bên là quảng trường,
một bên là biển, gió lồng lộng thổi… Văn phòng Hội tọa lạc trên tầng hai khá rộng,
đoàn Đắk Lắk 11 người ngồi chưa hết nửa chiếc bàn
hình ô van, phần còn lại là các văn nghệ sĩ tỉnh bạn. Nhà văn Đào Minh Hiệp -
Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật Phú Yên giới thiệu sơ qua vài nét về tỉnh: “Dân số hơn 800 ngàn người, hội viên của Hội
hơn 200, cơ sở như các bạn đã thấy, trên tầng ba có 4 phòng khách vì đang sửa lại
hệ thống nước nên không thể bố trí cho đoàn ở lại được…”. Nghe Chủ tịch Hội
nói trụ sở hội có hẳn 4 phòng khách trang bị đầy đủ tiện nghi, làm đoàn văn nghệ
sĩ Đắk Lắk càng thêm sửng sốt. Vâng! Thật sự sửng
sốt! Một tỉnh mới thành lập, dân số chỉ sem sém một nửa dân số tỉnh Đắk Lắk thế mà có một cơ ngơi làm việc như trong mơ. Trông
người lại ngẫm đến ta…! Nhà văn Huỳnh Thạch Thảo cho biết thêm về Tạp chí Văn
nghệ của Hội: tháng rưỡi ra một số, mỗi số in 600 bản, trong đó một nửa được phát
hành theo yêu cầu của bạn đọc; kinh phí dành riêng cho tạp chí hơn 200 triệu, tạp
chí có tài khoản riêng, con dấu riêng… Vốn là “dân” cùng làm tạp chí văn nghệ
như nhau, các anh có cái hơn đồng nghiệp Đắk Lắk là Tạp chí được tự chủ về kinh phí hoạt động, biên chế nhân sự nhiều hơn,
tuy số lượng phát hành cũng sàn sàn như nhau (Phú Yên 3 tháng hai số, còn Đắk Lắk mỗi tháng một số với 500 bản). Thư ký tòa soạn Tạp
chí Văn nghệ Phú Yên - Huỳnh Văn Quốc cũng có những trao đổi hết sức chân tình
về hoạt động của tạp chí nói chung và công tác cộng tác viên nói riêng. Hai tạp
chí của hai Hội Đắk Lắk và Phú Yên, đều có chung một điểm giống
nhau: cộng tác viên các tỉnh bạn rất nhiều. Cuộc gặp mặt - giao lưu giữa đoàn văn
nghệ sĩ Đắk Lắk và Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên đã
đến lúc phải chia tay. Tôi nhận lời chuyển đề nghị của các anh về lãnh đạo hội Văn
học nghệ thuật Đắk Lắk sẽ kết hợp cùng tổ chức một trại sáng
tác chung giữa hai tỉnh trong thời gian gần nhất.
Chiều, nhà văn Huỳnh Thạch Thảo dẫn đoàn lên thăm Tháp
Nhạn - một di tích độc đáo của người Chăm ở tỉnh Phú Yên. Tháp Nhạn tọa lạc
ngay trên đỉnh núi Nhạn, cao khoảng trên chục mét, có cấu trúc gần với Tháp Bà
- Nha Trang. Sân tháp được lát gạch vuông đỏ au khá rộng, là nơi hàng năm được
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh tổ chức Ngày
Thơ Việt Nam. Xung quanh gò, cây cối xanh tốt, nhiều cây có đường kính khá
lớn, xen kẽ là những chùm hoa lạ làm cho người đến thăm thấy thêm phần linh thiêng.
Đứng ở chân tháp nhìn về phương bắc có thể thấy toàn bộ thành phố Tuy Hòa với
những tòa nhà cao tầng rất đẹp vây quanh cánh đồng lúa xanh mượt mà; quay về phía
đông nam là một cây cầu dài đang thi công chạy sát mép biển, nối hai bờ sông.
Thành phố giống như một bức tranh đẹp nhưng chưa hoàn thiện. Muốn vào trong tháp
để thắp hương, mọi người phải lách mình qua một người phụ nữ đứng tuổi với một
quầy hàng nho nhỏ bán bánh trái và một con chó nhỡ án ngay cửa tháp. Một danh
thắng gần trung tâm thành phố, rất đông du khách đến tham quan, trong đó có cả
người nước ngoài, vậy mà… tôi thấy man mác buồn. Không biết các cơ quan quản lý
khu di tích nghĩ gì khi để hình ảnh này cứ tiếp tục tái diễn trước du khách đến
đây.
Sáng ngày 29 chúng tôi đến ghềnh Đá Đĩa thuộc địa phận
tỉnh Phú Yên, đây là di tích đã được xếp hạng. Từ đất liền nhô ra biển một mỏm đá
không lớn lắm, chu vi khoảng sáu bảy chục mét nhưng được sắp xếp hoàn toàn bằng
những khối đá ngũ giác có các cạnh khá đều nhau, mỗi cạnh dài hơn 30 cm; đứng
xa nhìn ta có cảm giác nó như một tổ ong vàng khổng lồ. Tôi chợt nhớ đến thác
Dray Sap cũng có những cột đá hình dáng kích cỡ giống y hệt thế này. Thiên nhiên
thật kỳ diệu, từ ghềnh Đá Đĩa thuộc tỉnh
Phú Yên cách xa thác Dray Sap tỉnh Đắk Lắk hàng mấy trăm cây số sao
lại có những cột đá đĩa giống nhau đến vậy! Biển xanh biếc, từng cơn sóng ồ ạt
thi nhau chạy vào tung những ngọn nước cao ngất trườn lên mặt ghềnh như muốn đánh
bóng cho các tảng đá đĩa. Văn nghệ siõ Đắk Lắk thi nhau bấm máy, đâu đó xen lẫn tiếng xuýt xoa: Đẹp, đẹp quá! Nhưng phải
nói, thật tiếc cho một danh thắng còn thiếu cơ sở vật chất phục vụ khách tham
quan du lịch, thiếu sự đầu tư cho cơ sở
hạ tầng; bên cạnh tấm bia được đắp bằng xi măng ghi rõ ngày tháng ghềnh Đá Đĩa được
công nhận di sản quốc gia, chỉ có một căn lều chiều ngang độ 3m, dài 6m, trên lợp
lá, xung quanh thưng… gió, không một bóng người. Mải mê chụp hình, ghi chép, mặt
trời lên đỉnh đầu anh em mới vội vã quay về. Khi đi đến gần thành phố Tuy Hòa,
nhà thơ Lê Vĩnh Tài thông báo: “Mấy anh ở
Hội đang đợi chúng ta về ăn bữa cơm liên hoan chia tay”. Xe đến điểm hẹn,
nhà văn Huỳnh Thạch Thảo và nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Quỳ ra tận xe đón đoàn. Bữa
cơm trưa thân mật thắm tình bè bạn, nồng ấm tình cảm gia đình, làm ai cũng say,
cái say của tình bạn văn nghệ sĩ.
Chiều tối đoàn
đến thị xã Cam Ranh, các bạn cộng tác viên của tạp chí được thông báo trước, đến
khá đông, có người ở xa trên chục ki-lô-mét như Thùy Liên phải nhờ chồng giữ
con, đội mưa đến gặp; hay cô gái làm thơ vàø thích đùa - Lam Hạnh tuổi đời còn
rất trẻ; có người tuổi chưa nhiều như tác giả thơ Trần Quang Phong mang dáng dấp
của người trung niên, chưa uống đã… say! Quây quần đọc thơ, kể chuyện đến tận
khuya không dứt ra được. Được các cây bút trẻ Cam Ranh nhắc nhiều nhất là nhà
thơ Lê Vĩnh Tài và nhà thơ Đinh Thị Như Thúy, những người rất quen trên văn đàn
nhưng chưa được gặp mặt. Hồng Minh rất vô tư nhận xét: “Anh Tài khác xa so với em tưởng tượng khi chưa gặp”. Nhà thơ Tôn Nữ
Ngọc Hoa của đoàn Đắk Lắk hỏi lại: “Có phải em thất vọng vì Tài không có râu?”. Mọi người cười ồ lên trước
sự vô tư của các bạn trẻ Cam Ranh. Có lẽ say với không khí văn chương mà đoàn Đắk Lắk ai cũng đọc thơ, toàn những bài tủ của mình. Nhạc sĩ
Sỹ Hùng tuy tuổi đã cao nhưng có lẽ say với không khí nên không những đọc thơ,
hát mà còn trổ tài kể chuyện thi với các bạn Cam Ranh, làm cho đêm giao lưu như
thêm ấm cúng hơn, mặc dù về khuya trời đổ mưa mỗi lúc một nặng hạt. Riêng tôi cũng
phải trả lời những thắc mắc: “Tại sao bọn
em gửi bài nhiều mà lâu không thấy được đăng?”
Sáng hôm sau rời thị xã Cam Ranh tiếp tục hành trình
về thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Thành phố vào những ngày nghỉ lễ nên “cháy
phòng”; mọi cố gắng nhờ bạn bè liên hệ khách sạn đều không thành công. Trong lúc
khó khăn chưa biết làm thế nào thì nhà thơ Lê Công Hương thông báo: “Bạn mình công tác ở Ban Tuyên giáo tỉnh ủy đã
liên hệ được hai phòng ngủ tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh”. Thật mừng song cũng
hơi ngại khi phải vào ở ngay trong cơ quan quân sự. Nhưng sự tiếp đón chân tình
của cán bộ chiến sĩ nơi đây đã làm yên lòng anh chị em văn nghệ. Tuy hơi chật
nhưng tiện nghi không kém bất kì một khách sạn nào, làm ai cũng vui và nhất trí
ở lại thêm một đêm nữa trước khi lên Đà Lạt. Hai ngày ở Phan Rang rồi vào thành
phố Phan Thiết, lại quay ra Phan Rang, trời vẫn đổ mưa tầm tã, nhiều nhà dân
hai bên quốc lộ 1A bị chìm trong nước, những người nông dân trồng nho, thanh
long be bờ tát nước trong gió mưa làm mủi lòng các văn nghệ sĩ, ai cũng xuýt
xoa. Nhà văn Đỗ Trọng Phụng nhận xét: “Người
nông dân ở vùng nào cũng cực vì sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên. Các
ông thấy đấy, mưa gió thế này làm sao có thể giữ nổi không bị úng ngập”. Trời
vẫn mưa, tác giả thơ Lê Hưng Tiến - Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Thuận đội mưa chạy xe máy đến tình nguyện dẫn đoàn
đi tham quan. Trên con đường về thăm thôn Đá Trắng gần thành phố Phan Rang, đường
rải nhựa chỉ rộng khoảng 5m thôi nhưng người dân chiếm mất gần một nửa phơi lúa.
Trời dần dần tối, xa xa trên các thửa ruộng đã gặt lác đác vài con cò trắng lẻ
loi đứng nghếch mỏ nhìn trời (cũng lạ, tại sao cò trắng nơi đây không đi theo đàn
như ở Đắk Lắk); trên đường những người dân tộc Chăm
lầm lũi bước theo những chiếc xe bò chất đầy lúa đi xiên xiên qua những hạt mưa
bay làm lòng tôi thấy nao nao. Lúa đã nhiều, nhà xây môđen cũng lắm, nhưng người nông dân vẫn còn lam lũ quá.
Trưa mùng 2 tháng 5 chúng tôi đặt chân tới thành phố
Đà Lạt, trời vẫn lất phất mưa. Đón chúng tôi tại trụ sở Báo Sài Gòn thường trú,
nhà thơ Nguyễn Thanh Đạm - Tổng biên tập Báo Lâm Đồng thông báo: “Các bạn thông cảm, hiện nay không còn phòng
nên ở tạm đây vậy”. “Có được phòng
nghỉ trong những ngày này là tốt quá rồi” - nhà thơ Hoàng Thiên Nga đỡ lời.
Đà Lạt khí hậu khác hẳn Ban Mê cũng như các tỉnh mà đoàn Đắk Lắk vừa đi qua. Lạnh. Sắp đến mùa hè nhưng ai cũng run vì lạnh, đành ghé chợ Đà
Lạt mua áo ấm. Mỗi người tranh thủ chọn cho mình một bộ tránh rét và để răng khỏi
va vào nhau, ai cũng tấm tắc: Đúng là Đà Lạt! 14 giờ, chúng tôi lên xe đến trụ
sở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng. Thành phố du lịch vừa làm
lễ đón nhận đô thị loại một nên không khí còn tưng bừng lắm; đường phố đầy hoa
và kín người đi lại, mặc cho trời vẫn lắc rắc mưa. Trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng là một tòa biệt thự cũ xây
từ thời Pháp, tuy không bề thế như trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên nhưng lại có vẻ đẹp riêng của nó, rất Đà Lạt.
Thật bất ngờ khi các anh ở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng
đã có mặt đông đủ đợi đoàn. Nhà thơ Trần Ngọc Trác - Chủ tịch Hội, khỏe khoắn và
hơi mập một chút so với trước đây; nhà thơ
Phạm Quốc Ca - Phó Chủ tịch, tóc bạc thêm mấy phần, chắc công việc quản
lý ở Trường đại học Đà Lạt đã vất vả nay phải gánh thêm trọng trách của Hội nữa,
người sút đi cũng phải; nhà văn Lê Công - Phó Chủ tịch, Tổng biên tập tạp chí
LangBiAn có vẻ sút đi nhiều, da sạm đen; và còn các nhà văn, nhà thơ của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng như: nhà thơ Phạm Vũ, nhà
thơ Minh Hạnh, vợ chồng nhà thơ Nguyễn Vĩnh… lần lượt bắt tay đoàn và cười. Không
khí ấm cúng như trong một gia đình. Sau phần nghi thức, hai đoàn có cuộc giao lưu,
mọi người thay nhau trình bày những tác phẩm mới nhất của mình. Trong niềm vui
chung, có lẽ người vui nhất là nhà thơ Hoàng Thiên Nga và nhà thơ Đinh Thị Như
Thúy; hai cô sinh viên trường đại học Đà Lạt năm nào nay trưởng thành, trở lại
chốn xưa gặp lại bạn tâm giao và thầy giáo cũ: nhà thơ - Tiến sĩ Phạm Quốc Ca.
Nhìn cảnh thầy trò cùng xúc động, cùng đọc thơ, cùng nâng ly, lòng như ấm lại
giữa cái rét của Đà Lạt. Trời tối lúc nào không biết, phải đến lúc chia tay
nhau, các anh chị của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng
cùng hẹn ngày gặp lại tại Ban Mê. Buổi giao lưu để lại ấn tượng tốt đẹp cho mỗi
người và cứ mong sẽ có dịp tái ngộ.
Ngày mùng 4 tháng 5, đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk rời thành phố Đà Lạt đầy hoa và lòng mến khách để
trở về Buôn Ma Thuột. Trời vẫn se lạnh, nhưng không còn mưa nữa! Thành phố hoa
lùi lại phía sau, những cánh rừng thông cũng lùi lại phía sau và những rừng cà
phê tươi tốt lại hiện ra trước mắt mọi người. Không đâu có những cánh rừng cà
phê mượt mà xanh tốt như Đắk Lắk. Thế là đã trở về nhà
sau chuyến đi sáu ngày vòng qua năm tỉnh, chắc chắn các anh chị em trong đoàn sẽ
thu hái được nhiều vốn sống để có những tác phẩm văn học không những cho hôm
nay mà còn cho cả mai sau. Những tư liệu có được sau chuyến đi chắc chắn sẽ bổ
sung cho nguồn vốn thực tiển hết sức quý giá của các văn nghệ sĩ. Cảm ơn Hội Văn
học nghệ thuật Đắk Lắk đã tạo điều kiện cho chúng tôi có một
chuyến đi bổ ích. Cảm ơn các hội Văn học nghệ thuật tỉnh bạn: Phú Yên - Lâm Đồng
và những bạn văn chương, những cộng tác viên của tạp chí ChưYangSin ở các tỉnh:
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận… đã tận tình giúp đỡ đoàn có một chuyến đi thành
công.
(Nhật ký một chuyến đi).
@Để có được những trang văn dày dặn trong Tiếng kêu chim én, nhà văn Hồng Chiến đẫ ấp ủ lâu năm, đã đi thực tế dài ngày từ nam ra bắc, đã gặp gỡ rất nhiều người, nhiều cảnh vật, huy động vốn sống và cả vốn hiểu biết ở rất nhiều lĩnh vực, đã lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi.
Nhắc đến Đắk Lắk người ta nghĩ
ngay đến vùng đất được mệnh danh là xứ sở cà phê Việt Nam. Quả đúng như vậy, nếu có dịp
bạn theo quốc lộ 14A từ Gia Lai qua, hay quốc lộ 26A dưới Khánh Hòa lên, hoặc
quốc lộ 27A bên Đà Lạt về, đến địa phận Đắk
Lắk bạn sẽ thấy những cánh rừng cà phê bạt ngàn, trải dài như vô tận.
Cây cà phê sinh trưởng trên mảnh đất ba zan trù phú này phần đa thuộc nhóm cà
phê có tên khoa học là Rubusta, người dân ở đây gọi nôm na là cà phê vối (vì lá
giống với lá cây vối người Việt thường lấy lá nấu nước uống), khác xa so với cà
phê các nơi bởi sự đồng đều về chiều cao và tán. Thường thường cây cà phê vối
khi đưa vào kinh doanh cao 1,2 m tán rộng xấp xỉ 1,4 m; nếu cây nào trên 10
tuổi có thể cao tới 1,5m, tán rộng hơn 2m một tý. Mùa hoa cà phê nở tất cả các
kẽ lá đều bung ra những chùm hoa trắng tinh khôi, toả hương thơm ngát. Mùa hoa
cà phê nở cũng là mùa con ong đi lấy mật và mùa bướm bướm về. Không biết loài
bướm ở đâu ra mà nhiều đến thế, chúng bay kín trời, màu sắc rực rỡ, bay qua các
lô cà phê hàng tháng trời không hết. Nếu ai có dịp tới Đắk Lắk được chiêm ngưỡng một lần vũ điệu của các loài bướm và
hít thở hương thơm của hoa cà phê sẽ trọn
đời không quên. Còn người dân sinh ra và lớn lên ở Đắk Lắk dù vì cuộc sống mưu
sinh phải đi xa, nhưng đến mùa hoa cà phê nở cũng háo hức tìm về dù chỉ một
ngày để thả hồn mình với hoa, với bướm rồi đi cho đỡ nhớ.
Nhưng Đắk Lắk không chỉ có cây cà
phê làm say đắm lòng người, mà thiên nhiên còn ban phát cho nơi đây một dòng
sông khác lạ, dòng sông chảy ngược. Thông thường ở đất nước Việt Nam
chúng ta “trăm sông đổ một biển Đông”, mọi con sông đều từ phía tây chảy xuôi
ra biển Đông; riêng ở Đắk Lắk có con
sông lại bắt nguồn từ phía đông chảy ngược qua phía tây và đổ về sông Mê Kông
thuộc địa phận Vương quốc Căm-pu-chia, đó là sông SrêPôk. Sông SrêPôk có hai
nhánh chính, một nhánh được đặt tên là Krông Ana (theo tiếng Êđê là sông Cái
hay còn gọi sông Vợ) bắt nguồn từ dãy ChưYangSin thuộc dải Trường Sơn chảy qua
các huyện Krông Pak, Krông Bông và Krông Ana trước khi hợp dòng với sông Krông
Knô tạo thành sông SrêPôk. Nhánh thứ hai bắt nguồn từ tỉnh Lâm Đồng chảy qua
địa phận hai tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk trước khi hòa với dòng sông Krông
Ana được đặt tên: sông Krông Knô (theo tiếng Êđê là sông Đực hay còn gọi là
sông Chồng). Nếu sông Krông Ana hiền hòa, tạo ra những cánh đồng lúa nước rộng
lớn, phì nhiêu nơi nó chảy qua thì ngược lại, dòng sông Krông Knô tương đối
hung dữ; nó len lỏi qua các dãy núi cao, tạo nên lắm thác ghềnh trước khi ùa
vào dòng Krông Ana hình thành sông SrêPôk. Có lẽ vì “vợ chồng sông” lâu ngày bị
chia cắt nên khi chúng gặp nhau đã quấn quýt lấy nhau, gầm thét lao về phía tây
tạo nên nhiều thác nổi tiếng như: Thác Đray Sap, Đray Nur, Trinh Nữ, Đray
H’Linh… thác nào cũng đẹp, thơ mộng và hùng vĩ. Trước đây, khi vùng đất quanh
thành phố Buôn Ma Thuột còn hoang vu, rừng còn nhiều thú dữ, nhưng ông vua cuối
cùng của triều đại nhà Nguyễn - Bảo Đại đã bắt quân dân phục dịch băng rừng lội
suối đến thác Đray Sap thưởng thức. Trước cảnh đẹp của thác, ông vua nổi tiếng
ăn chơi một thời trầm trồ thán phục và lấy ngay tên ông tổ của mình đặt tên cho
thác, từ đó dòng thác được mang tên: thác Gia Long. Nhắc lại điều ấy để bạn đọc
có thể hình dung ra dòng thác hùng vĩ như thế nào!
Sau ngày thống nhất đất nước, ngành du lịch Đắk Lắk tổ chức nhiều tua du lịch đến các dòng thác trên dòng SrêPôk
và thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi
bước qua thế kỉ XXI, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, nền “công
nghiệp không khói” ở Đắk Lắk có bước
phát triển vượt bậc và cũng được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối tốt,
thu hút ngày càng đông du khách đến thăm, góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân
sách cũng như tạo cho nhiều người dân nơi đây có thêm việc làm. Vì thế khi đến Đắk Lắk du khách không chỉ được thưởng thức
ly cà phê thơm ngát chính hiệu mà còn được đi thăm những dòng thác xinh đẹp,
đến rồi không muốn về.
Trong những tháng đầu năm 2009, một số báo đưa tin: Các dòng thác trên sông
SrêPôk bị khai tử! Nghe nói giật mình, tôi quyết tâm đi một chuyến xem sao.
Theo như Sở Công thương Đắk Lắk cho
biết: trên sông SrêPôk ngoài nhà máy thủy điện Đray H’Linh được xây dựng từ
thập niên 80 của thế kỷ trước vẫn vận hành tốt, hiện nay có 3 nhà máy thủy điện
đang thi công và sắp hoàn thành là: nhà máy thủy điện Buôn Tua Srah, nhà máy
thủy điện Buôn Kup, nhà máy thủy điện Srêpôk 3, ngoài ra còn có 2 nhà máy đã
được duyệt dự án, sẽ thi công vào thời gian sắp tới là: Nhà máy Thủy điện
Srêpôk 4 và Nhà máy Thủy điện Srêpôk 5. Dòng sông chảy ngược quả là giàu tiềm
năng để khai thác “than trắng”, biến nó thành điện phục vụ sự nghiệp “hiện đại
hóa đất nước”. Nhưng những nhà máy thủy điện mọc lên nhiều như vậy có ảnh hưởng
gì đến các dòng thác nói riêng và cuộc sống của người dân trên địa bàn Đắk Lắk nói chung? Cũng có người cho rằng
xây dựng các nhà máy thủy điện còn cần phải tính đến diện tích mặt hồ vì đất
đai có ít, xây dựng các hồ chứa nước lớn sẽ chiếm mất nhiều diện tích đất thì
không có lợi về kinh tế lâu dài. Tôi mang thắc mắc này trao đổi với ông Trần
Ngọc Ánh - Trưởng phòng tổ chức kiêm Chánh văn phòng Ban quản lý thủy điện 5.
Ông cho biết: “Trong thập niên 60 của thế
kỉ trước, nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Hỏi đâu thác nhảy - cho điện xoay chiều”;
để xây dựng các nhà máy thủy điện, người ta chủ yếu dựa vào các dòng sông có
thác, các nhà máy thủy điện được xây dựng trên sông SrêPôk cũng theo một quy
luật ấy cả. Theo như tính toán, các dòng thác vẫn bình thường sau khi các nhà
máy đi vào hoạt động vì các công ty cam kết để tối thiểu lượng nước chảy qua
thác là 8 đến 10 m3/giây. Hiện nay đập chứa nước của thủy điện Buôn
Kup đã hoàn thành đang tích nước để chuẩn bị
chạy thử, nước trên các thác Gia Long, Dray Nur, Đray Sáp… vẫn chảy bình
thường”. Tôi phân vân bán tín bán nghi nên quyết tâm đến thăm các công
trình thủy điện trên dòng SrêPôk xem sao.
Trước đây nói đến căn cứ cách mạng Nam Ka, người ta thường nghĩ ngay đến
vùng đất khô cằn, đường sá cách trở, khó khăn, bốn bề là núi cao bao bọc, việc
đi lại thông thương với bên ngoài chỉ có một cách duy nhất là đi bộ trèo đèo
lội suối hoặc dùng voi để vận chuyển. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ
xâm lược, địa danh Nam Ka là nỗi kinh hoàng của bọn cướp nước và bán nước đồng
thời là niềm tự hào của quân và dân ta. Sau ngày thống nhất đất nước, do điều
kiện kinh tế còn khó khăn, ta chưa làm đường lớn vào đây được. Phải đến tận khi
có Dự án Nhà máy Thủy điện Nam Ka, con đường rải nhựa, vượt qua núi cao, vực
sâu để đến với vùng đất oai hùng một thuở, ô tô xe máy chạy đến tận khu vực
hành chính của xã. Ông Trương Quang Hồng, Trưởng ban quản lý Dự án Nhà máy Thủy
điện Buôn Tua Sah cho biết: Nhà máy Thủy điện Buôn Tua Sar là công trình thủy
điện đầu nguồn sông SrêPôk; theo thiết kế, hồ chứa nước của công trình thủy
điện này có dung lượng 800 triệu m3, vốn đầu tư 2.500 tỷ, công suất
nhà máy 86 mêgaW. Nếu so với các nhà nhà máy đã và đang thi công trên cùng dòng
sông này thì công suất không phải lớn, nhưng có vai trò hết sức quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến các nhà máy thủy điện khác cũng như việc phòng chống lũ
lụt, vì nó có nhiệm vụ điều tiết nước cho sông SrêPôk và các nhà máy thủy điện
phía dưới. Công trình chính thức khởi công ngày 25 tháng 11 năm 2004 và dự kiến
hoàn thành trong năm 2010. Tôi lên thăm công trình được tận mắt chứng kiến cảnh
thi công giai đoạn cuối, người xe hối hả làm việc dưới cái nóng oi bức mùa khô.
Tình cờ tôi gặp một đoàn người dân tộc Ê Đê đi làm về đang rửa chân phía dưới
chân đập, bà amí H’Jut vui vẻ cho tôi biết: “Mình ưng lắm cái con đập này, nó làm cho sông bớt giận giữ, không lên
cướp phá bắp lúa như trước đây nữa. Con đường nhựa từ thị trấn vào đây rộng
lắm, đi được nhiều xe nên hàng hóa mang vào được nhiều, lại rẻ như ngoài phố,
thích lắm”. Trả lời câu hỏi của tôi: “Công
trình này có lấy mất nhiều ruộng rẫy không?”. “Ồ, không nhiều đâu, đây là vùng toàn đá thôi, chúng xếp lại thành ghềnh
đẹp lắm; nay nó chìm dưới nước cả rồi. Cả vùng chỉ có 4 hộ được tiền trả công
làm rẫy; họ nhận tiền đền bù mua nhiều thứ đẹp lắm, vui lắm”. Nhìn những
khuôn mặt rạng ngời hạng phúc khi nói về công trình thủy điện đang xây như nói
về chính công trình của mình; điều đó chứng tỏ công trình đã được sự đồng thuận
của người dân trong vùng. Công trình khởi công, đường sá được làm mới, điện
lưới kéo đến tận từng gia đình, trên đầu hồi nhiều nhà đã mắc chảo DTH, bắt
sóng truyền hình từ vệ tinh. Nam Ka hôm nay đã có bước chuyển mình về mọi mặt,
ngoài đường, điện ra, trường học cũng được đầu tư xây dựng khang trang. Mảnh
đất heo hút khi xưa, nay đã trở thành một địa danh du lịch hấp dẫn để du khách
đến thăm nhà máy thủy điện và ngắm nhìn đỉnh núi Nam Ka cao 1300 mét so với mặt
nước biển, đứng soi bóng xuống mặt hồ; thăm căn cứ cách mạng Nam Ka oai hùng
một thuở...
Rời thủy điện Buôn Tua Sar, tôi đến thăm công trình thủy điện Buôn Kup. Đây
là công trình thủy điện lớn nhất được xây dựng trên sông SrêPôk, có vốn đầu tư
5.000 tỷ đồng, công suất nhà máy 280 mêgaW, đường
hầm dẫn nước vào nhà máy dài 4,7km (dài nhất Việt Nam và Đông nam Á). Tôi quan
tâm đến công trình này vì hồ chứa nước án ngữ ngay sát các dòng thác nổi tiếng
như: Dray Sáp 1, Dray Nur, Trinh Nữ… liệu hồ đang đóng cửa tích nước thì các
dòng thác sẽ ra sao? Đứng trên con đập chính của nhà máy thủy điện Buôn Kup
ngắm nhìn mặt hồ rộng mênh mông, mang nặng phù sa; xa xa về hướng đông bắc, cà
phê xanh tốt mỡ màng trải dài xa tít tắp. Tôi hỏi ông Nguyễn Đức Khẩn thôn
Quỳnh Ngọc, xã Ea Na, huyện Krông Ana về đánh giá của người dân khi công trình
thủy điện xây dựng trên quê hương họ. Ông vui vẻ cho biết: “Có cái hồ nước lớn thế này thì tốt quá chứ.
Anh xem, cà phê bao quanh bờ hồ rất cần nước tưới, nay thì không lo bị thiếu
nước, độ ẩm tăng nên năng suất chắc chắn sẽ cao; khí hậu cũng tốt hơn cho sức
khỏe con người, ấy là chưa kể sau vài tháng nữa việc kinh doanh, khai thác
nguồn lợi thủy sản trên mặt hồ sẽ tạo việc làm cho nhiều hộ nông dân có thêm
thu nhập. Nếu các bên liên quan đầu tư thoả đáng thì đây còn là điểm du lịch
sinh thái lý tưởng, chắc chắn sẽ thu hút được nhiều du khách đến thăm”.
Con đập ngăn nước cơ bản đã hoàn thành, chỉ còn một ít công nhân đang rải
đá chuẩn bị rải nhựa và trồng cột đèn điện. Nhìn về phía hạ lưu, dù các cánh
cửa đóng kín để tích nước, nhưng trên dòng chính, nước sông vẫn chảy khá mạnh.
Tôi hỏi ông Trần Ngọc Ánh: “Các cửa đập
đều đóng kín, tại sao nước trên sông SrêPôk vẫn chảy nhiều như vậy?”. “Anh nhìn phía chân con đập, nước thấm qua đập
đấy. Khi thiết kế, người ta không
lường trước được hết các vết nứt của đá nên khi hồ bắt đầu tích nước mới phát
hiện ra đập bị thấm nước, bên thi công đã thuê các chuyên gia đầu ngành về
khoan, bắn bê tông hiện đại nhất nhưng vẫn không thể khắc phục được, đành phải
chấp nhận”. Công trình lớn như thế này mà đập chính bị thấm, lượng nước
chảy ra sông đạt vận tốc từ 10 đến 12m/giây, liệu tuổi thọ công trình sẽ như
thế nào về lâu dài. Như đoán được băn khoăn của tôi, ông Ánh cho biết thêm: “Theo tính toán của các chuyên gia, nước chảy
qua các kẽ đá ở sâu dưới lòng đất, không ảnh hưởng gì đáng kể đến công trình”.
Nghe cách giải thích như thế, tôi biết vậy chứ mình đâu có chuyên môn trong lĩnh
vực này! Xuôi sông SrêPôk, tôi đến thác Dray Sáp 1 (tên gọi mới của thác Gia
Long), cách đập thủy điện Buôn Kup khoảng 2 km; thác vẫn chảy nhưng diện tích
mặt thác bị thu hẹp lại đáng kể, sự hùng vĩ vẫn còn đó, song đã bớt đi nhiều sự
hung dữ. Trời xế chiều, cầu vồng bảy sắc vẫn xuất hiện trên mặt thác. Anh bạn
cùng đi với tôi chợt reo lên thích thú khi khám phá ra một điều hết sức mới mẻ
về dòng thác: nước rất trong! Đúng thật, nước trong như lọc. Nếu ai đã từng đến
thăm những dòng thác trên sông SrêPôk trước đây, cho dù đang trong mùa mưa hay
cuối mùa khô, chúng ta thấy nước sông vẫn đục ngầu. Còn hôm nay, nước trong
xanh, ta có thể nhìn thấy cả những chú cá đang lao mình đùa giỡn với thác. Đây
lại là một điều thích thú nữa. Nước trong cũng phải thôi vì nó thấm qua chân
con đập, len qua các kẽ đá từ sâu trong lòng đất trước khi trở lại với dòng
sông nuôi các dòng thác. Thế là ngoài cả dự kiến của các nhà thiết kế khi hoạch
định “nuôi” các dòng thác bằng cung cấp nước qua các van xả, giờ đây dòng sông
tự nó tìm ra cách để tồn tại và vẫn cất tiếng hát vang khi qua các dòng thác.
Các công trình thủy điện trên dòng sông “chảy ngược” dù đã hoàn thành hay
đang thi công đã góp phần làm phong phú thêm cảnh đẹp Tây Nguyên. Thật khó tin
trên vùng đất chỉ có nắng và gió này đã có thêm những hồ nước lớn, không những
là nguồn cung cấp điện phục vụ con người mà còn góp phần cải thiện môi trường
và có ý nghĩa quyết định đến tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng cà phê,
lúa, hoa màu… trên vùng đất mà nó đi qua. Xét cho cùng, chúng ta phải chấp nhận
thực tế, một vài thác ghềnh nổi tiếng trên sông có thể bị mất đi hoặc kém dữ
dội như xưa, nhưng đổi lại ta có được lợi ích to lớn phục vụ cuộc sống thì sự
đánh đổi đó cũng chấp nhận được. Tôi tin cho dù mùa mưa hay mùa khô, dòng SrêPôk
vẫn hát, khúc hát oai hùng, mạnh mẽ, tự tin vì nó đang ngày càng phục vụ cuộc
sống, phục vụ con người hữu ích hơn.
Tháng 7 năm
2009
(Dòng sông vẫn hát).
@ Nếu có gì cần lưu ý khi đọc Tiếng kêu chim én thì theo tôi, có lẽ là ở chỗ: Hồng Chiến đã sử dụng những yếu tố ngẫu nhiên làm chất liệu cho tác phẩm của mình. Bởi vì, sử dụng yếu tố ngẫu nhiên sẽ làm cho tính "kịch" trong bút ký cao hơn, tạo cho người đọc phát huy được trí tưởng tượng, gợi mở tầm hiểu biết thêm về sự kì diệu của thiên nhiên và cuộc sống muôn màu. Đó là giá trị lớn của tác phẩm. Tạo cho người đọc vào cuộc. Đó là cuộc đấu tranh giữ(chứ không phải giữa) cái thiện và cái ác, quan hệ giữa con người và con người trong lề lối ứng xử của nhân tình thê thái.
Đã lâu Chi hội Văn học -
Nghệ thuật Krông Năng chưa được đi thực tế ra Bắc, đợt
này Hội Văn học - Nghệ thuật Đắk Lắk tổ chức để đi thì lại không đủ quân
số: người bận công việc cơ quan, người đang đi học, người đưa con đi thi đại
học… danh sách 10 người, cuối cùng chốt lại còn 5, đành phải mời các Chi hội
khác đi cho đủ một chuyến xe. Lên xe ai cũng háo hức trò chuyện, tâm sự nỗi
niềm và hi vọng. Xe chạy theo đường Hồ Chí Minh, uốn lượn qua các triền đồi làm
nhiều người trầm trồ thán phục những cánh đồng, những cánh rừng như bức tranh
thủy mạc lướt qua cửa xe. Là những văn nghệ sĩ tiêu biểu của một vùng đất nhưng
có người đây là lần đầu tiên được đi trên con đường mang tên Bác. Xúc động lắm,
tự hào lắm và cả biết ơn Hội đã tạo điều kiện để các văn nghệ sĩ được đi tìm
cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Nhưng không phải ai cũng được ngắm nhìn núi đồi,
phong cảnh quê hương đang bay qua cửa kính xe. Nhà thơ Nguyễn Man Kim say xe không dám nhìn đường… Nhà
thơ Đỗ Toàn Diện lại chọn cho mình cách… im lặng.
Đường Trường Sơn hay còn gọi đường Hồ Chí
Minh hôm nay được làm khá tốt, tấp nập xe xuôi ngược. Xe vừa chạy qua đèo Lò
Xo, chuông điện thoại đổ dồn, mở máy thấy nhà thơ Trần Văn Hội hỏi: “Đã đi đến đâu rồi, các anh em ở Hội liên
hiệp Văn học - Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế đang chuẩn bị đón đoàn đấy”. Tôi
giật mình, 7 giờ sáng xuất phát từ Buôn Ma Thuột, bây giờ mới 13 giờ các anh
ngoài đó đã chuẩn bị đón, đi làm sao kịp, xe có chạy nhanh cũng phải 20 hoặc 21
giờ mới tới Huế. Trên xe nghe thông báo ai cũng vui vì sắp được gặp gỡ, giao
lưu với các bạn văn thơ xứ cố đô. Có lẽ nhà thơ Trần Văn Hội quá sốt ruột, nên
cứ cách một tiếng lại gọi một lần hỏi thăm xem xe đi đến đâu rồi, thật vui. Anh
là cựu sinh viên Huế, một thời nổi tiếng trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, biểu tình, bãi khóa chống chế độ cũ;
nước nhà thống nhất lại hăng hái nhận nhiệm vụ đưa dân lên Đắk Lắk lập quê
hương mới và được điều động về công tác tại Đài Truyền thanh - Truyền hình
huyện Krông Buk. Thơ anh được nhiều người ưa thích, bạn bè đánh giá rất cao vì
có phong cách riêng. Nhận thông báo đi thực tế sáng tác, anh lên Hội xin về Huế
trước mấy ngày để thu xếp công việc gia đình rồi cùng đón đoàn ra Bắc. Hơn 20 giờ chúng tôi mới tới Huế, thật vui và
xúc động khi thấy nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc - Tổng biên tập Tạp chí Sông
Hương, hoạ sĩ Nguyễn Tuấn - biên tập viên Tạp chí Văn hoá Huế và các bạn văn
nghệ sĩ đến đón chúng tôi ngay tại cửa xe. Tay bắt mặt mừng như anh em lâu ngày
về lại quê nhà, các anh đưa chúng tôi đến nhà hàng bên bờ sông Hương. Chị Phan
Thị Thuỷ - cán bộ văn phòng Tạp chí Sông Hương còn giới thiệu thêm với đoàn vì
sao chọn nhà hàng này và bố trí bàn ăn quay ra mặt sông đúng địa điểm nơi từng
diễn ra cuộc thi Hoa hậu thời trang. Trời Huế về đêm, không khí như trong lành
hơn, làm mọi người hết sức sảng khoái, quên đi một ngày rong ruổi trên đường.
Có người cao hứng định xin phép đọc thơ, nhà thơ Thanh Ngọc gạt đi và tuyên bố:
“Hôm nay gặp gỡ, giao lưu với Đoàn văn
nghệ sĩ Đắk Lắk, ta chỉ nói chuyện vui, tâm sự thôi; cấm không được nói chuyện
chuyên môn”. Mọi người cùng vỗ tay tán thưởng. Gần 22 giờ, họa sĩ Đặng Mậu
Tựu mới về tới nơi. Anh nói: “Tôi phải dự
lễ khai mạc trại sáng tác mở dưới huyện Quảng Điền, cách đây gần 50 km, nghe
tin các anh chị ở Đắk Lắk ra nên thu xếp để về”. Tuy bận công việc, đường
sá xa xôi như vậy nhưng họa sĩ Đặng Mậu Tựu - Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học -
Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế cũng gắng về gặp mặt và giao lưu với Đoàn. Tình
cảm đó thật đáng quý biết bao. Ngồi trên đất cố đô, bên những người bạn Huế,
ngắm dòng sông Hương êm đềm, lấp lánh ánh đèn hai bên bờ chiếu xuống, thỉnh
thoảng một chiếc thuyền rồng lướt qua làm ánh điện vỡ ra muôn vàn mảnh lung
linh trông thật đẹp, tiếng nhạc êm êm rải vào thinh không làm mọi người cứ tưởng
mình đang ở trong cõi mơ! Đêm ở thành phố Huế hầu như ngắn hơn mọi nơi trên
trái đất thì phải, mới vừa gặp nhau một chút đã quá nửa đêm, đến lúc phải chia
tay các anh. Tay nắm tay mà lòng không muốn
buông, nhưng thời gian không cho phép, ngày mai đoàn lại phải tiếp tục lên
đường nên đành... hẹn lại dịp sau. Thành phố Huế cổ kính và thanh bình với
những vẻ đẹp đặc biệt của vùng Á Đông tạo cho du khách một chút thanh tịnh, lưu
luyến và con người ở đây cũng thật gần gũi thân thương với tình cảm hết sức
chân thành, giản dị đã in sâu vào trái tim bạn bè.
Theo lịch trình, đoàn sẽ nghỉ đêm tại thị xã
Uông Bí để sáng hôm sau lên thăm Yên Tử, tiện đường đi anh em văn nghệ sĩ đề
nghị ghé thăm Lữ đoàn tên lửa Sao Đỏ đóng quân tại Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Xe
tới cổng đơn vị, Đại tá Nguyễn Văn Thạo - Phó chính ủy Lữ đoàn ra tận cổng đón.
Vào đến sân hội trường, Đại tá Vũ Đăng Trung - Lữ đoàn trưởng bước ra sân bắt
tay từng người một vui vẻ mời vào. Sau thủ tục xã giao làm quen, Đại tá Nguyễn
Văn Thạo giới thiệu vài nét về đơn vị, tuy thời bình nhưng cán bộ chiến sĩ
trong đơn vị luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, đảm
bảo sự bình yên cho bầu trời Thủ đô. Đại tá Vũ Đăng Trung cho biết thêm: từ khi
thành lập đến nay đơn vị luôn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao và vừa qua
cấp trên đã có quyết định chuyển Đại tá Nguyễn Văn Thạo về đơn vị mới làm Chính
ủy. Buổi giao lưu với anh em văn nghệ sĩ Đắk Lắk ra thăm đơn vị được tổ chức
khá chu đáo, ấm tình quân dân. Các văn nghệ sĩ trong đoàn Đắk Lắk như: nhà thơ
Trần Chi, nhà thơ Đỗ Toàn Diện, nhà thơ Nguyễn Trọng Đồng, nhạc sĩ Hồ Tuấn… đã
trình bày những bài thơ, bản nhạc mà mình tâm đắc nhất tặng đơn vị. Trong không
khí vui vẻ của buổi giao lưu, bất ngờ Đại tá Vũ Đăng Trung xung phong hát một
ca khúc mình mới sáng tác, mọi người nhiệt liệt vỗ tay hoan hô. Không ngờ những
anh bộ đội Cụ Hồ ở Lữ đoàn tên lửa cũng yêu văn nghệ và quý văn nghệ đến thế.
Không khí buổi giao lưu thật ấm cúng, mang lại nhiều bổ ích cho những người làm
công tác sáng tác văn học - nghệ thuật. Từ vùng Tây Nguyên xa xôi lần đầu tiên
các văn nghệ sĩ đến đồng bằng sông Hồng, tận mắt thấy môi trường rèn luyện người
bộ đội thời bình canh giữ bầu trời; các anh đã giúp văn nghệ sĩ hiểu đúng hơn,
chính xác hơn hình ảnh người lính binh chủng Phòng không oai hùng của Quân đội
nhân dân Việt Nam, những người đã lập nên kỳ tích trong thế kỷ XX và hôm nay
trong tình hình mới. Cuối buổi giao lưu, các anh lãnh đạo đơn vị còn mời đoàn
đi thăm các doanh trại của đơn vị, tận mắt chứng kiến cảnh sinh hoạt của các
anh bộ đội thời bình. Những người lính hôm nay tuy chưa phải đối mặt với quân
thù như các lớp cha anh đi trước, nhưng trên thao trường, cũng phải dãi dầu mưa
nắng, vật lộn với mọi khó khăn vất vả về thời tiết khí hậu, đảm bảo khí tài
luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. Trước đây, lớp chúng tôi đã thuộc câu “thao
trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu”, ngày nay các anh, những người đi
sau hình như cũng rất thuộc câu nói đó, bằng chứng là cách các anh đang thể
hiện trong các buổi tập trên thao trường.
Chia tay các anh những
người canh giữ bầu trời, mang lại bình yên cho Tổ quốc, chúng tôi càng hiểu
thêm về người lính và chắc chắn trong các sáng tác của mình sau này - các anh
sẽ là nguồn cảm hứng lớn để chúng tôi sáng tạo được những tác phẩm có chất
lượng cao.
Sau chuyến đi 10 ngày, Đoàn văn nghệ sĩ Đắk
Lắk qua nhiều vùng đất nước như: Huế, Hà Nội, Yên Tử, Hạ Long, Phong Nha - Kẻ
Bàng… ở đâu đoàn cũng được đón tiếp chân tình và thu được những kết quả hết sức
tốt đẹp, và tích lũy thêm nhiều tư liệu quý giá để sáng tác. Những cuộc gặp gỡ,
giao lưu với đơn vị bạn không những thắt chặt tình cảm giữa các Hội, mà còn
giúp cho anh chị em văn nghệ sĩ hiểu thêm về từng vùng, từng miền đất nước và
con người Việt Nam,
có thêm nguồn cảm hứng để sáng tạo nghệ thuật.
Tháng 8 năm 2009
(Vòng tay bè bạn)
và nét độc đáo trong tập sách Tiếng kêu chim én của nhà văn Hồng Chiến là thường sử dụng, hay nói đúng hơn là chỉ dùng một lối kể chuyện quen thuộc để dẫn dắt câu chuyện. Với một không gian và thời gian hiện thực đơn thuần, thỉnh thoảng có đan chút xen cài, đảo ngược, để tạo ra sự tò mò và gây hứng thú cho người đọc, song vẫn mở ra được nhiều tuyến chủ đề, nhiều tầng ngữ nghĩa, đưa lại nhiều hiệu ứng thẩm mĩ khác nhau.
BMT 10.10.2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét