Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Nỗi niềm thơ trong "Phiên khúc sang mùa" của Mai Hữu Phước rất quen và lạ

Nỗi niềm thơ trong "Phiên khúc sang mùa " của Mai Hữu Phước rất quen và lạ.
Tôi biết Mai Hữu Phước khoảng hơn mười năm nay(trên sách báo), tôi hay cộng tác chuyên mục truyện ngắn của Tạp chí Tài hoa trẻ, còn anh phụ trách chuyên mục Thầy thuốc của bạn, trên Tạp chí Tài hoa trẻ. Cách đây bốn năm, một chiều đang lang trên phố thì nhận được điện thoại của anh bạn tôi, nhà thơ-Ths bs Nguyễn Ngọc Tiến biểu đến quán phố núi tiếp khách quý, hôm đó có mưa bụi bay trong không khí gặp mặt thân mật tôi mới lần đầu tiên được gặp mặt anh, nhà thơ-Ths bs Mai Hữu Phước . Cảm nhận đầu tiên về anh, tuy là một người vào hàng "có tên tuổi trong làng văn nghệ", nhưng tôi thấy anh là một người rất khiêm tốn, lời lẽ rất cẩn trọng, rất gần gũi ,chứ không theo kiểu "khua chân múa tay, coi mình là trung tâm của vũ trụ", như một số "nhà nổi tiếng khác mà tôi đã từng gặp". Chính vì điều đó tôi có thiện cảm khi tiếp xúc với anh. Sau đây tôi có đôi lời cảm nhận về thơ anh nhân đọc tập thơ "Phiên khúc sang mùa " mà anh đã gửi tặng.
Tập thơ "Phiên khúc sang mùa" (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội-2012) của Mai Hữu Phước khá ấn tượng. Được chuyển thể sang song ngữ Anh-Việt, ở đây tôi chỉ xin có đôi điều cảm nhận thơ về bản Tiếng Việt.
Ngôn ngữ trong thơ Mai Hữu Phước nhiều mới lạ. Có nhiều tứ thơ độc đáo. Cách viết nhiều chắt lọc và chỉn chu trong cách dùng từ, nên gợi hình, gợi ý rất hiệu quả. Chính điều này là sự kích thích lớn nhất để tôi đọc "Phiên khúc sang mùa".
Phiên khúc sang mùa, một khái niệm chắt chiu như là một sự thay đổi, như là một sự lột xác (trong hi vọng), như là một thành quả của đớn đau, của xót xa.
Ngay từ bài đầu tiên, đã thấy một cuộc hồi sinh tâm trạng, từ thương cảm đến bình yên:
"Nắng vô tư
Bình minh tóc em
Anh chẳng vô tư
Khi nhìn thấy tóc."
Vô tư hồn nhiên
Thơ Mai Hữu Phước hơi nghiêng về lý trí. Anh không thích đong đưa, lả lướt. Những câu thơ của anh nén lại, nhiều câu có bóng dáng triết luận về đời sống:
"Em bước bên xuân rất dịu dàng
Cánh mềm én lượn chở mùa sang,
Mai vàng đơm nụ chờ khoe sắc
Em để mùa xuân anh xốn xang!"
Dịu dàng xuân
Trong thơ anh có cách dùng từ rất riêng, chẳng hạn: không phải là "xa lìa" mà là "chia lìa", không phải là " ngày xưa" mà là "vùng tuổi thơ".
"Ngày tháng ấm êm
Chia lìa dòng chảy
Những hồn nhiên xưa
Lạc về mấy ngả
Bạn cũ đâu rồi?
Vùng tuổi thơ xa lắc
Có ai cùng về
Chơi lại trò đám cưới năm xưa!"
Vùng tuổi thơ xa lắc
Nhiều ý thơ lạ toát ra từ những câu thơ tưởng chừng như quen thuộc, như cũ kĩ. "Hồn nhiên nhẩm đếm sợi mưa cuối mùa", rõ ràng là: sự nhẩm đếm những hạt mưa cuối mùa kia, thì bản thân nó sẽ không còn hồn nhiên nữa, đó là sự mới lạ trong ý thơ:
Có người ngồi ngắm song thưa,
Hồn nhiên nhẩm đếm sợi mưa cuối mùa.
Sợi mưa đếm mấy cho vừa,
Để người ngồi với cuối mùa bâng khuâng.
Mưa cuối mùa
Dẫu có làm những ai thích vần điệu cảm thấy hẫng hụt, nhưng nhà thơ Mai Hữu Phước có nét riêng của mình. Tôi nghĩ, đó là những câu thơ trực diện, mà ở đây là trực diện của cảm xúc!
"Mưa lao xao gần xa
Bên trời ngày hạn
Ta ngồi cắn sợi mưa
Nhâm nhi
Nghe cây cỏ reo mừng."
Nhâm nhi sợi mưa
Thơ anh giàu chất triết lí: Triết lí về tình yêu, về cuộc sống, về đời người, nhưng ít kho khan mà thẫm đẫm chất nhân văn.:
"Thương chùm hoa dại mồ côi
Xác xơ nhẫn cỏ bên đồi năm xưa..."
Vô duyên
Chàng thi sĩ đa tình, nhưng lại có một trái tim nhân hậu, biết trân trọng gìn giữ và nâng niu tình yêu đến trong ngần.
"Em như mùa xuân chín
Anh nghe lòng tha phương.
Tình nào như mây trắng
Bao nhiêu là tơ vương..."
Mùa xuân gõ cửa
Cái ngây ngô, khép nép với người đẹp trong thơ anh thật đáng yêu.
"Phá Tam Giang chiều ráng đỏ
Màu hoàng hôn buông chơi vơi
Liệu tình hôm nay tha thiết
Mai sau còn tựa vai người!"
Hoàng hôn trên phá Tam Giang
Cái trằn trọc của Mai Hữu Phước không phải là cái trằn trọc của riêng anh mà cái trằn trọc của những người đang yêu "Tiếng em cười trong trẻo/ Rừng chiều như ngừng trôi", và những câu thơ cứ đan chéo vào nhau ngỡ ngàng như một giấc mơ" Anh lạc vào em/ Ta lạc trong đêm cao nguyên/ Em dắt anh qua vùng cổ tích/ Nghìn sao khuya có điều muốn nói/ Huyền thoại nào say đắm Lang Biang."
Rồi những điều giận hờn vu vơ rất đời thường diễn ra trong cuộc sống hàng ngày cũng được anh chuyển tải thành thơ"Anh ngoài vùng phủ sóng/ Nói mà em không tin/ Bảo rằng vui quên mất/ Nũng nịu em bắt đền!".
Những câu thơ của anh như nén lại sự dịu dàng đầy cảm xúc, tung tẩy theo nhạc điệu: Qua cầu Tràng Tiền không giờ/ Nhịp chân vang lời dạ khúc/ Đêm sông Hương à...ơi.../ Người về thương nhớ khôn nguôi...
Thơ của một bác sĩ luôn trằn trọc trước nhiều vấn đề xã hội:"Ả gái điếm ngáp vặt/ Mệt mỏi,/ Có thể là thiếu thuốc/ Hay thói quen mang tính đàn bà."
Tôi đinh ninh rằng nỗi niềm của Mai Hữu Phước gửi đi cái tình sẽ còn ở lại với câu thơ.
Lang thang qua giữa đồi thông gió
Tiếng gió như là tiếng thở than
Đồi thông hai mộ buồn muôn kiếp
Sao lại chia xa quá phụ phàng!
(Nhớ Đà Lạt)
anh mượn thể thơ thất ngôn để giãi bày tâm trạng, mới qua ta cảm thấy rất êm tai và bình thường như những câu thơ khác, nhưng đọc kĩ ta sẽ thấy các cặp câu đối xứng và đẩy "suy tưởng " lên cao thành cao trào. Cách nói mạch lạc cũng được thể hiện trong bài thơ "Lời con tim":
Ta yêu em có phải?
Gắng giữ lòng bình yên
Ta dặn dò lý trí
Nhưng thua lời con tim.
câu đầu tỏ vẻ hoài nghi, câu thứ hai thể hiện sự quyết tâm, song câu thứ ba duỗi ra mà đầy đặn lòng người, để cho câu thứ tư dồn nén lại cho sự hẫng hụt ngọt ngào. Hình thức thơ tuân thủ theo lối lôgic này dễ sa vào khô cứng , nếu tác giả không dồi dào cảm xúc!
Đọc tập thơ "Phiên khúc sang màu" tôi khấp khởi bắt gặp tác giả viết về "Nỗi đau người mẹ" là góc nhìn của thi sĩ -bác sĩ:
Những bà mẹ có con chết trong chiến trận
Bây giờ đã quá già nua
Đau nỗi đau nào cũng nỗi đau người mẹ
Dẫu các con ở hai phía chiến hào.
Vâng bài thơ trên không thể tách rời hai nhân tố thi sĩ -bác sĩ bằng sự cảm nhận của một tâm hồn đa cảm.
Mới đọc qua "Phiên khúc sang mùa" ta dễ bị cảm giác đánh lừa, và dễ rơi vào cảm giác giống như đọc bao tập thơ khác.
Phải nói rằng khi đọc kĩ "Phiên khúc sang mùa" của Mai Hữu Phước tôi cảm thấy rất quen và lạ . Quen vì cách thể hiện thi tứ như bao nhà thơ khác, lạ vì Mai Hữu Phước đã khéo léo biết sắp đặt cấu tứ đúng cách và hợp lí tạo ra hiệu ứng ngôn từ rất khoáng đạt.
Và đây là một bài thơ "Trong nghĩa trang liệt sĩ"
cho ta suy nghĩ:
Họ đến đây vội vàng
Nhưng ngồi rất lâu trong quán nhậu.
Đồng đội các anh xưa
Nay đã khác xa rồi.
Đẹp mặt thế gian
cũng khói hương bùi ngùi thương tiếc
Nhưng cái tình khác thuở đạn bom rơi!
Khép lại tập thơ, vẫn còn đấy chút hương thơm vừa quen và vừa lạ, vừa gần gũi, vừa xa xôi, lặng lẽ mà cũng nhiều dư âm. Và tôi mới ngộ ra một điều:
"Mai sau tất cả phai mờ hết
Còn nhớ nhau chăng một chút tình."

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Không có cái "bi" trong tinh thần bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Không có cái "bi" trong tinh thần bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Ngữ văn 12, t7,t1)
Quang Dũng sinh năm 1921 và mất năm 1988, ông tên khai sinh là Bùi Bình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây cũ (nay là TP Hà Nội). Ông học đến bậc Trung học ở Hà Nội. Sau cách mạng tháng Tám, Quang Dũng tham gia quân đội. Từ sau năm 1954, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.
Phải nói rằng Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa- đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình. Để ghi nhận công lao đóng to lớn của ông cho nền Văn học nước nhà, năm 2001, ông được nhà nước xét tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một giai đoạn dài với đoàn quân Tây Tiến. Đoàn quân Tây Tiến gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng biên giới Việt- Lào.
Bấy lâu nay đã có rất nhiều bài giảng hay về bài thơ Tây Tiến. Nhưng chỉ thấy khám phá ở những khía cạnh nghệ thuật, những câu chữ, còn những yếu tố hàng đầu của giảng văn đã bị bỏ qua hoặc né tránh, hoặc hiểu khác nhau dẫn đến cảm thụ toàn bài không giống nhau.
Qua bài viết này tôi xin nêu ra một vấn đề cần hiểu rõ hơn nội dung và tâm trạng của nhà thơ khi bình giảng bài thơ Tây Tiến ở học kì 1 lớp 12, đó là: Nội dung của bài cần khắc sâu cho học sinh hiểu" không có cái "bi" trong tinh thần bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng".
Ta hãy đọc đoạn đầu của bài thơ sẽ thấy sự hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến, những cuộc hành quân gian khổ trong điều kiện thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ, thơ mộng. Hào hoa mà anh dũng :
" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi /"
Đúng là bài thơ Tây Tiến có pha chút hương vị buồn, vị bi. Nhưng ở đây tuyệt nhiên không phải là cái bi lụy, bi thảm, bi thương và lại càng không phải là cái "bi" của bi kịch. Mà ở đây cái buồn trong bài thơ Tây Tiến không hề toát ra từ nội dung, tư tưởng mà chỉ toát ra từ cảm hứng hoài niệm- mà đã là gọi là hoài niệm xưa nay thì có bao giờ vui. Thêm vào đó, cảm hứng hoài niệm lại được chọn lựa một thể thơ thích hợp để biểu hiện, là thể thơ "thất ngôn trường thiên" với những vần bằng đều đều, lại giữ độc
vận trong từng đoạn thơ , khiến nhạc điệu cứ êm ái triền miên (người đọc dễ bị đánh
lừa cảm giác). Người đọc đã bị âm điệu êm ái ấy lôi cuốn quyến rũ, huyền hoặc, nên
đã lướt qua những câu chữ hết sức quan trọng để đi đến đánh giá bài thơ có cái "bi","
trong tinh thần bi tráng ". Thực ra, bài thơ tràn đầy cảm xúc vui tươi, khỏe khoắn lạc
quan yêu đời.
Ở bài thơ này, theo tôi cái "bi" chỉ được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật đối lập,
thăng giáng, để làm nổi bật lên những ngày hành quân gian khổ nhưng lại rất hào hứng, những ngày đóng quan vui vẻ và ý vị, cùng một cái lẽ sống cao cả, đó là: Chết vì dân vì nước của bao chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến anh hùng, theo cách sử dụng ngôn ngữ riêng của nhà thơ Quang Dũng.
Nhà thơ thật khéo léo phân thân để nghiệm quá khứ với hiện tại, khiến cho người đọc không để ý phân biệt được không gian và thời gian nghệ thuật trong bài thơ, không nhận ra được tâm thức của nhà thơ, khi nào là trở lại với Tây Tiến và khi nào là đang còn ở trong đơn vị Tây Tiến, gián tiếp với hồi tưởng: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.../Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi/ ... /Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ/ ...".
Đúng thật, không biết khi nào thì tâm thức như đang trực tiếp trên đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, bằng những cảm xúc được tái hiện: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.../ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.../ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ...".
Nhà thơ cũng đã rất khéo léo kết hợp hai phương thức sáng tác, đó là: Phương thức thực tại, và phương thức lý tưởng hóa để làm cho toàn thể bài thơ hài hòa. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện thực với bút pháp lãng mạn, dẫn dắt người đọc vào cõi thực hùng vĩ, tráng lệ bên cạnh cõi mơ bay bổng phiêu diêu. Và đặc biệt nói đến tài năng sáng tạo ngôn ngữ của Quang Dũng, ông không dễ dãi dùng những tiếng thông thường quen thuộc, mà dùng những từ vựng rất "độc" của riêng ông, và điều này ít nhiều đã góp phần làm tăng thêm cho sự trong sáng của tiếng Việt.
Những câu thơ vừa tình tứ mà tinh nghịch, vừa tài hoa mà dí dỏm, nhưng cũng đầy chất lính vui nhộn mà cũng rất Hà Nội thanh tao. Tất cả những cái đó đã nên cái đọc đáo, cái kì lạ, cái giọng điệu riêng, cái lung linh huyền ảo của bài thơ, càng soi vào đó ta càng thấy óng ánh những sắc màu diệu kì.
Cùng những dòng hồi tưởng đó, tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến, những hình ảnh độc đáo không thể phai nhòa. Ta hãy đọc những câu tiếp theo:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
*
Tây Tiến người đi không hẹn trước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi." .
Ngay ở câu "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" đã cho ta thấy được sự gian khó và cực kì ác liệt của cuộc chiến tranh. Thời đó đoàn quân Tây Tiến hoạt động trong rừng núi phía tây Bắc bộ nơi biên giới Việt- Lào của nước ta, nơi rừng thiêng nước độc bệnh sốt rét làm cho các chiến sĩ tóc rụng đến nỗi không mọc lại được. Da xanh bủng như tàu lá chuối rừng, ốm yếu, bệnh tật, nhưng tinh thần thì vững vàng. Khí phách hiên ngang khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Tinh thần ấy thật mãnh liệt, mãnh liệt cả trong "mộng", mãnh liệt cả trong "mơ". Qua hình ảnh " Mắt trừng gửi mộng qua biên giới" đã thể hiện ý chí quyết tâm của đoàn quân Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Cũng chính từ tình yêu quê hương, yêu đất nước của những chàng trai vừa
tròn mười chín đôi mươi trên đất nước Việt Nam nói chung và những chàng trai Hà Nội
nói riêng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của mình hình bóng của một "dáng kiều thơm" nào đó, hoặc cũng chí ít cũng là một nữ y tá trên
đường hành quân. Một chút lãng mạn như vậy thôi cũng đủ nuôi dưỡng tinh thần người
lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, hi sinh và điều này cũng là một động
lực khiến cho các anh nắm vững hơn cây súng trên tay. Tứ thơ mơ mộng này nằm dọc
cấu trúc chung của bài thơ "Tây Tiến" là ngược- xuôi: Đó là: Ý chí, hành động thì luôn
hướng ngược về phía tây Bắc Bộ nơi biên cương của Tổ quốc, còn tình cảm thì lưu
luyến xuôi về quê hương. Đó là cái hồn, cái tinh thần lạc quan của bài thơ.
Không nói hai câu đầu và hai câu cuối, mở và khép bài thơ ít được ai phân tích rạch
ròi. Ta thấy ở đây, đoạn đầu bài thơ là kỉ niệm những ngày đầu hành quân gian khổ và hào hứng. Cứ cách một hình ảnh kỳ vĩ, hiểm trở của núi rừng lại đến một hình ảnh mộng mơ, bay bổng của tâm hồn nghệ sĩ say tìm cảnh lạ, nơi miền đất xa, gần như chiếm ưu thế trong tâm hồn nhà thơ cũng như trong ý nghĩa thẩm mỹ của hình tượng thơ.
Đi dọc bài thơ ta bắt gặp ít nhất là năm lần, nếu không là nụ cười tinh nghịch thì cũng là một vẻ dí dỏm thông minh. Ta cũng có thể thấy xuất hiện ít nhất là năm lần hình ảnh của người con gái, biểu tượng của cái đẹp. Và ẩn khuất sau những câu thơ là những tiếng cười sảng khoái qua hình ảnh "Súng ngửi trời"- vì súng có mũi súng giống như một nụ cười sảng khoái: ví như khi ta ăn mừng chiến thắng thì thường chĩa súng lên trời làm một băng liên thanh, đó là một cách thể hiện niềm vui sướng của người lính thời chiến.
Bằng nghệ thuật điêu luyện, Quang Dũng đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, với tinh thần bi hùng cao quý và niềm lạc quan yêu đời, chứ không rơi vào tinh thần "bi lụy". Vì những người lính Tây Tiến hiểu rằng: Họ sẵn sàng hi sinh để chiến đấu cho một lý tưởng cao cả đó là bảo vệ Tổ quốc, đó là tinh thần của người cách mạng. Và người đời sau sẽ mãi dựng lên tượng đài của lòng dũng cảm trong bài thơ "Tây Tiến" - Bất diệt.

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

đừng trách của Đặng Bá Tiến

Đừng trách của Đặng Bá Tiến Đặng Bá
ĐỪNG TRÁCH…
Em đừng trách cỏ dây
Bên triền đê xanh mướt
Sao ngày xưa không biết
Trói hai người một đôi
Em đừng trách đường đời
Sao lối đi trăm ngả
Chớp mi nhìn gót lạ
Cả một thời lạc nhau
Trách chi dòng sông sâu
Trách chi cầu không bắc
Trách chi sen phai sắc
Khi thu sang lá vàng…
Còn một chút mơ màng
Chút xuyến xao thương nhớ
Hãy thành bông hoa nở
Tặng nhau khi Xuân về!
BMT 8.1.2015
Mới đây tôi đọc trên facebook bài thơ "Đừng trách ..." của nhà thơ Đặng Bá Tiến, tôi đã bị cuốn hút theo bởi dư âm của nó. Trước đây người ta thường biết đến Đặng Bá Tiến qua các bức ảnh, các bài báo mang tính thời sự nóng bỏng trên các mặt báo. Nhưng gần đây bạn đọc được biết một Đặng Bá Tiến khác- đó là nhà thơ Đặng Bá Tiến, ông mới được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, thơ ông dày dạn cảm xúc, chắc chắn về cách dùng từ, đầy đặn về cấu tứ, không đong đưa bóng bẩy, nhưng đầy gợi cảm . "Tôi thấy nhiều người cảm nhận thơ đa phần là : đoạn thơ này, hay câu thơ, thậm chí bài thơ ấy nói về cảnh đẹp, nói về tình yêu đôi lứa...đại loại như thế, đó là sự cảm nhận chung chung, thiếu trách nhiệm. Mà theo tôi nên cảm nhận cái bút pháp mà nhà thơ đã sử dụng, cái tinh thần của bài thơ, cái giọng điệu và sự hàm ý trong bài thơ".
Nhà thơ Đặng Bá Tiến là người thâm trầm, kiệm lời. Điều này hiển hiện rõ trong thơ ông. Bài "Đừng trách" là thể thơ năm chữ, với 16 câu mà "nỗi đau khổ thành bông hoa nở-trổ bông"(chữ của người viết) đã ám ảnh người đọc rất lâu . Chỉ là những lời trách móc cỏ cây, hay trách cứ đường đời ấy, lý do đơn giản vậy thôi, mà không phải vậy :
Em đừng trách cỏ dây
Bên triền đê xanh mướt
Sao ngày xưa không biết
Trói hai người một đôi
Em đừng trách đường đời
Sao lối đi trăm ngả
Chớp mi nhìn gót lạ
Cả một thời lạc nhau/
Đặng Bá Tiến đẩy hai từ "đừng trách" của cỏ dây, của đường đời, khiến người đọc thở dài. Hơn cả nỗi buồn:
Sao lối đi trăm ngả
Chớp mi nhìn gót lạ
Cả một thời lạc nhau/
Rõ ràng ở đây ta thấy lời trách chỉ là cái cớ khi người thơ nhìn cảnh vật trong một tâm trạng nuối tiếc cho sự mất mát về phương diện trạng thái tâm hồn. Nhưng sự trách cứ lặng lẽ ấy là vì khổ đau, vì tình yêu, thì sự hao khuyết này đáng nghĩ ngợi. Phải là người sâu sắc mới nghĩ chứ sống nông cạn thì khó nghĩ lắm thay.
Giả thiết người yêu đi lấy chồng cũng không phải là chủ đề mới trong tình yêu, trong mối tình đầu. Rồi thời gian sẽ giúp con người ta xóa nhòa đi, êm dịu đi những dằn vặt cộm lên tháng ngày:
Trách chi dòng sông sâu
Trách chi cầu không bắc
Trách chi sen phai sắc
Khi thu sang lá vàng…
Còn một chút mơ màng
Chút xuyến xao thương nhớ
Hãy thành bông hoa nở
Tặng nhau khi Xuân về!
Người đọc ngạc nhiên quá, vì Đặng Bá Tiến thi sĩ quá. Không thi sĩ sao cảm được, sao viết được nỗi đau khổ thành "Chút xuyến xao thương nhớ/ Hãy thành bông hoa nở/ Tặng nhau khi xuân về!". Dù hoa sen phai sắc, hay hoa gì đi nữa cũng gợi cho ta một nỗi buồn man mác. Hương thơm phai nhạt đi. Nhưng "Chút xuyến xao thương nhớ/ Hãy thành bông hoa nở/" thì hiếm gặp. Đó là sự đau khổ từ từ không vội vã, nhấm nháp nỗi đau không dễ, để đau khổ nở hoa và tặng nhau khi mùa xuân về, thì đau khổ thành bông hoa nở kia có mấy người thấu được?
"Đừng trách..." là bài thơ tình thăng hoa của Đặng Bá Tiến viết về người yêu. Mặc dù có một số người chưa thỏa mãn về vần điệu của bài thơ, và cả cấu tứ có phần"rối rắm"của bài thơ. Nhưng theo tôi, Đặng Bá Tiến có cái nhìn riêng biệt về cuộc đời, do vậy ông có một giọng điệu riêng. Ở đây ông làm thơ không phải để chia sẻ nỗi đau, mà để đau khổ nở thành bông hoa, khiến cho bài thơ như một cái cây đau khổ đứng riêng một góc trời, không thể nhầm lẫn vào những cái đau khổ khác mà chúng ta bắt gặp hàng ngày.
Xin cứ để cây đau khổ thành bông hoa nở khi gấp lại bài thơ tình của Đặng Bá Tiến.

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

pbvh- Cảm xúc khi đọc bài thơ Mẹ của Nguyễn Hồng Nguyên


cảm xúc khi đọc bài thơ Mẹ của Nguyễn Hồng Nguyên
08:18 20 thg 12 2012Công khai0 Lượt xem0

cảm xúc khi đọc bài thơ MẸ tôi CỦA nGUYỄN hỒNG nGUYÊN
13:28 16 thg 7 2011Công khai3 Lượt xem0
(MẸ TÔI: Nguyễn Hồng Nguyên- b DL 3.3.2000)

Bài thơ lục bát tuy không dài lắm, mà chất chứa đầy nỗi suy tư trăn trở, cảm xúc sâu lắng của người con phương xa hướng về mẹ ở quê nhà.
"Xuân xưa tóc mẹ còn xanh
giờ tóc mẹ bạc cũng  đành...vì con".
Chỉ với 2 câu đầu thôi, ta cũng cảm thấy được sự hy sinh, mất mát không gì bù lấp được công lao  trời bể của người mẹ. Ở đây chỉ một chữ "đành"cũng chứa đầy tâm sự, và nỗi niềm trắc ẩn của nhà thơ...Tất cả những đức tính hy sinh, chịu thương, chịu khó và lòng bao dung chở che đã thành bản chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam- của người mẹ Việt Nam. Góp phần tạo dựng nên một hồn thơ dung dị Hồng Nguyên.
Mặc dù đề tài về người mẹ không phải là mới , những ở mỗi một nhà thơ lại có một cái nhìn khác nhau. Với Hồng Nguyên ta bắt gặp trong thơ anh là một người mẹ rất đỗi quen thuộc, bình dị, chân chất thôn quê.
"Tháng năm thân mẹ héo mòn
Một đời cơ cực cho con nên người
Mẹ ơi con nhớ từng lời
Âù ơ mẹ hát cái thời còn thơ
Quê nghèo gió thổi phất phơ
Mình mẹ quang gánh xác xơ chợ chiều
Vì con mẹ phải khổ nhiều
Tảo tần hôm sớm...đủ điều lo toan"

Không phô trương , không hoa mỹ, không trau truốt trong từng câu chữ, nhưng tác giả đã dùng phương pháp liệt kê để lột tả được phần nào tâm trạng của mình. Đó là, tâm trạng của đứa con xa xứ, khi mùa xuân đến thì nỗi nhớ mẹ càng thêm da diết.Nỗi niềm ấy cứ đeo đẳng, cứ cháy lên không nguôi không chỉ trong lòng tác giả,  mà nó cháy lên trong lòng tất cả những người con xa xứ khi mỗi độ xuân về.
Vốn quan niệm mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của đơm hoa kết trái, mùa của đoàn viên. Thế nhưng vì một lý do nào đấy mà không thể chở về quê nhà thăm mẹ được, để thỏa lòng nhớ mong bao ngày xa cách. Khi nhìn thiên hạ đua nhau sắm tết, nhà nhà sum họp thì nhà thơ bỗng cảm thấy đau đớm và cô đơn ngồi nhìn xuân sang. Trong phút cô đơn, xa xót ấy, nhà thơ nhớ đến mẹ, đến họ hàng, bạn bè, làng xóm, quê hương.
Bài thơ là tiếng lòng thổn thức của tác giả, nhớ thương về mẹ đến đứt ruột. Và nỗi nhớ ấy thật da diết, mỏi mòn.
"Xuân về nở trắng hoa xoan
Mẹ ngồi tựa cửa dưới tàu hoa vông"
Nỗi niềm chờ đợt con về cứ phấp phỏng trong nỗi âu lo, chờ mãi mà con vẫn chưa về, cứ day dứt mong đợi, nhưng sự mong đợi ấy cứ xa mờ, mỏng manh trong làn khói lam chiều.
"Mắt nhòa mòn mỏi  ngóng trôngPhương trời xa thẳm chờ mong con về."
Đoạn kết của bài thơ đã lột tả được tâm trạng của người mẹ, đó là sự cô đơn và nỗi buồn mòn mỏi ngóng trông con về. Nỗi niềm đợi chờ  ấy cứ phập phồng trong nỗi âu lo mỏi mòn.
Ở câu cuối ta thấy chỉ với hai từ "mắt nhòa"... ở đây cũng đủ nói lên được sự chờ đợi lớn lao, đó là một nỗi chờ đợi sâu thẳm chứ không phải là một sự chờ đợi nào đó hời hợt trong chốc lát. Nhà thơ đã cảm thấy sự chờ đợi của người mẹ cứ xa xôi hun hút, " Mắt nhòa mòn mỏi ngóng trông". Câu thơ đầy tâm trạng, cũng bởi nhớ quá, thương quá nên sự mong đợi ấy cứ xa mờ, mỏng manh trong làn khói xuân mờ nhạt.

pbvh: ĐỌC SÁCH: Tiếng kêu chim én của nhà văn Hồng Chiến

Cầm trên tay tập truyện ký: Tiếng kêu chim én dày 190 trang còn thơm mùi giấy của nhà văn Hồng Chiến, gồm 19 truyện ký, hầu hết đã được in trên tạp chí Chư yang sin và trên các tờ báo trung ương và địa phương, được Nhà  xuất bản Văn hóa Dân tộc in thành sách năm 2009. Đọc các truyện kí này rải rác trên các báo và tạp chí thì chắc khó lòng nhận ra cái hay, cái mới lạ, cái quen thuộc nhưng rất đỗi gần gũi với hơi thở của cuộc sống qua bút ký của nhà văn Hồng Chiến.
Nhưng khi đặt các truyện ký của Hồng Chiến nằm cạnh nhau trong một hệ thống, tập sách đã tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật chiếu rọi lên các sự kiện, sự vật, cũng như mỗi thân phận người vất vả vì cuộc mưu sinh, qua đó góp phần khẳng định bản lĩnh văn xuôi của Hồng Chiến.
Trải dài theo trang sách là hầu hết các truyện ký trong tập sách đều có sự tham gia trực tiếp của tác giả, là người kể lại chuyện của bạn bè, chuyện của người thân, hay chuyện của chính mình được trải nghiệm qua cuộc sống.
Qua giọng văn của Hồng Chiến kể lại không nhằm mục đích cung cấp cho người đọc biết thêm một câu chuyện, một sự kiện đời sống mà gợi nên những suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời. Không chỉ dừng lại ở việc mô tả những nỗi đau trong sâu thẳm tâm hồn của một người nghệ sĩ vốn đã trải nghiệm cuộc đời. Nhiều người đánh giá truyện ký của Hồng Chiến nhiều sự kiện, nặng về chất liệu của báo chí, thiếu tính chất của văn chương. Theo tôi, đó là những nhận xét chưa thỏa đáng. Bởi vì, tính trung thực trong một tác phẩm văn học đó mới là bản chất của văn chương. Nhưng tùy theo cái gu thẩm mĩ của từng nhà văn thì sẽ có cách tiếp cận khác nhau, và qua đó ta sẽ thấy giọng điệu văn chương của từng người cũng khác nhau. Chính vì thế mà khi ta đọc tác phẩm văn chương ta dễ bắt gặp, dễ nhận biết đó là văn của ai, thơ của ai. Đó chính là dấu ấn cá nhân của từng tác giả gởi vào tác phẩm của mình.
Và sự thành công trong tập bút ký : Tiếng kêu chim én của Hồng Chiến theo tôi chính là ở chỗ: Hồng Chiến đã tìm được cho mình một văn thể, một giọng điệu nhẹ nhàng kín đáo, dễ chấp nhận, dễ tiếp thu, để khơi gợi những nỗi đau rất đời. Bởi vì, không phải bao giờ những sự thật, những mặt trái, những đau đớn, những trái ngang, những xót xa cũng dễ dàng được con người ta chấp nhận, được con người ta bộc lộ một cách trực diện, cụ thể. Nỗi đau trước những cảnh ngộ phũ phàng bao giờ cũng âm ỉ, khó tỏ bày nhưng cần phải được ý thức về nó một cách đầy đủ để đưa ra nhận thức, hành động đúng đắn hơn.
@Chuyện về những người lính từ Thái Bình vào Ea súp (Đak Lak) để xây dựng vùng kinh tế mới.


Như một câu chuyện cổ tích: vùng đất hoang vu đã thành cánh đồng trù phú. Thành quả hôm nay là sự kết tinh của sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng và chính quyền các cấp với những con người dám nghĩ dám làm, dám hy sinh lợi ích cá nhân vì công việc chung, vì lợi ích cộng đồng. Hai đồng chí lãnh đạo của huyện Ea Súp thuộc hai thế hệ kế tiếp nhau, không khỏi bùi ngùi, xúc động khi nhắc lại các vị lãnh đạo huyện thuở ban đầu như: Ma Ðam, Thu Nga, Y Sơn, Y Li, Y Nga Kbua, Trần Biên... Họ, nay người còn người mất, người ở Ðắk Lắk, người chuyển đi xa, nhưng tất cả đã góp công sức của mình vào sự hưng thịnh của vùng đất bình nguyên Ea Súp bao gồm không chỉ huyện Ea Súp hôm nay mà còn cả các huyện Cư M'gar, Buôn Ðôn.

Ðêm về khuya, từng cơn gió mát ào đến. Phía tây thỉnh thoảng lóe lên những ánh chớp ngoằn ngoèo báo hiệu một cơn mưa sắp đến. Cả thị trấn sáng trưng dưới ánh đèn điện soi rõ những căn nhà cao tầng đứng uy nghi như tạc vào đường chân trời trong một bức tranh. Nhìn về phía đông, dãy đèn điện trên bờ hồ đập Ea Súp Thượng lung linh rải bạc xuống mặt hồ làm sáng bừng cả góc trời, như thể có một thành phố vừa mới mọc lên. Chia tay các anh, lòng tôi tràn ngập một niềm vui. Ở vùng đất giàu tiềm năng này, với cán bộ lãnh đạo sâu sát như các anh, tôi tin cuộc sống của người dân sẽ không chỉ đoạn tuyệt được đói nghèo mà còn có thể làm giàu trên chính mảnh đất tưởng chừng mãi mãi khô cằn này. Vùng đất ngủ quên bao đời nay đã được đánh thức. Một tương lai rực rỡ đang đón đợi phía trước.   

Mùa thu năm 2007


(  Sự tích một bài ca)

@ Chuyện về dịch cúm gia cầm ở Tây Nguyên cũng làm cho ngòi bút của Hồng Chiến run lên vì thương cảm.


Dịch cúm gia cầm tràn vào nước ta như một cơn ác mộng khủng khiếp. Từ thành thị đến nông thôn, và ngay cả ở huyện Ea Kar, một huyện miền núi nhỏ bé nằm khuất sâu trên cao nguyên Đăk Lăk nó cũng không tha. Người dân ý thức được nhiệm vụ của mình trước tai họa khủng khiếp ấy nên có nơi đã kịp thời hủy cả đàn gia cầm nhà mình tuy chưa có dấu hiệu gì bị lây nhiễm bệnh và cách xa ổ dịch hàng chục ki-lô-mét. Những buôn làng Tây Nguyên mỗi sáng thức dậy râm ran tiếng gà gáy gọi nhau như một bản nhạc đồng quê với đủ giai điệu, tiết tấu, giờ đây không còn nữa. Tất cả đã lặng đi, tạo ra một khoảng trống trong không gian và cả trong lòng người dân quê khi thiếu vắng một tiếng gà gọi nhau.

Xót xa quá! Đau đớn quá! Nếu như làng quê Việt Nam chúng ta lại mất đi tiếng gà gáy quen thuộc, mất đi hình bóng những chú gà quanh quẩn bên gốc cây, bến nước, hay ngay cạnh những lối đi. Con vật quen thuộc ấy không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm quý giá, quen thuộc, rẻ tiền và thuận tiện cho mỗi gia đình người nông dân Việt Nam - đặc biệt là người dân vùng núi cao, nơi đi chợ mua bán khó khăn, đất nương rẫy bạt ngàn - luôn luôn vẫn có đồ ăn tươi hàng ngày, mà còn là con vật thân quen không thể thiếu của mỗi gia đình. Cho dù có nghèo đến mấy, mỗi gia đình cũng có vài chục con gà đủ các màu sắc thơ thẩn trong vườn, bới đất nhặt sâu. Con gà đối với người dân Việt Nam chúng ta quý là vậy, đáng yêu là vậy, nay bỗng nhiên biến mất, làm sao không buồn cho được .

(Thương lắm một tiếng gà!)

@Rồi đến chuyện con chim én -một sứ giả của mùa xuân, nay bị người ta săn lùng để đưa lên bàn nhậu cũng đủ để Hồng Chiến thốt lên những lời đau đớn từ tận tâm can, khiến cho tai người đọc vang lên nhức nhối.
...

Trong những ngày cuối tháng bảy, dân nhậu ở huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk loan đi “bản tin” rất đáng lưu ý: muốn ăn đặc sản chim én hãy vào xã Chư Zang! Không biết tin đó đúng sai thế nào mà người ta đổ xô vào để tận hưởng món thực phẩm mới, lạ,ï hấp dẫn, kéo theo cả sự tò mò. Tuy không phải là đệ tử của “thần lưu linh” nhưng cái tin có “đặc sản chim én” làm tôi phân vân nửa tin, nửa ngờ và nảy ra ý định vào tận nơi xem sao. Biết đâu mấy tay bơm nhậu rủ nhau đi ăn thịt “rắn vuông” cũng nên.

Sáng chủ nhật, tôi phóng xe máy từ thị trấn Ea Kar vào xã Chư Zang. Con đường dài chưa đến 40km nay đã được rải đá cấp phối nên đi lại khá tốt, không giống như mấy năm trước cũng con đường này nếu đi vào mùa mưa xe máy phải đi mất cả buổi và chuẩn bị vài chục ngàn tiền lẻ trả tiền đi nhờ đất, nhờ cầu. Chuyện thật trăm phần trăm mà nghe như bịa: Hồi đó đoạn đường đi qua xã Ea Păn để vào xã Chư Zang vì xe ôtô, xe máy cày chạy nhiều nên có đoạn bị lún xuống như ruộng, không thể nào đi xe đạp hay xe máy qua được, buộc lòng người ta phải đi tránh chỗ lầy ấy vào góc vườn của một nhà bên cạnh đường dài khoảng 20 mét. Chủ nhà rất vui lòng cho đi nhờ với điều kiện một xe máy đi qua phải trả 1000 đồng còn xe đạp 500 đồng. Tính ra mỗi lần đi nhờ trên đất của người ta mỗi mét phải trả 50 đồng. Chưa hết, cây cầu xi măng bắc qua con suối nhỏ chỉ cách Ủy ban xã Ea Păn khoảng 200 mét bị lũ cuốn trôi mất một đoạn đường ngay đầu cầu rộng chừng hai mét. Một người dân gần đó sẵn lòng “làm phúc” giúp người qua đường, tự mang mấy tấm ván nhỏ bắc qua chỗ sạt để người đi xe máy, xe đạp có thể qua lại và chỉ “xin” trả công cũng đúng 1000 đồng một lần qua của xe máy và 500 đồng đối với xe đạp. Làm phép tính đơn giản ta thấy mỗi mét đi nhờ “cây cầu” phải trả 500 đồng. Nhưng muốn đến Ủy ban nhân dân xã Chư Zang phải qua hai cây cầu như vậy và giá cả như nhau. Ấy là chưa kể muốn vào mấy xóm phía tây của xã phải đi qua một con đò mà giá “mềm” một chuyến cũng phải trả không dưới 10.000 đồng cho một lượt người. Còn hôm nay xe chạy rất êm, không gặp ổ gà, ổ voi nào cả. Có lẽ vì đường đi thuận tiện thế này nên mấy tay buôn bán thú rừng, sành ăn, mò vào đây cũng phải.
...

Chỉ tội con chim én, sứ giả của mùa xuân, biểu tượng mãnh liệt của tình yêu thiên nhiên; tuy thân hình bé nhỏ nhưng can đảm tuyệt vời đã tung cánh bay liên tục một nửa vòng trái đất về đến đây, được “đón tiếp nồng nhiệt” trên bàn nhậu. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, bầy trẻ chăn trâu bao giờ cũng náo nức chào đón bầy én bay rợp trời trở về khi hoa đào nở rộ. Không ai nỡ làm hại chúng dù chỉ là va chạm nhẹ. Còn giờ đây người ta đang tôn chúng lên hàng “đặc sản”. Và cứ đà này thì không bao lâu nữa con cái chúng ta chỉ biết đến loài chim én qua sách vở mà thôi. Tội nghiệp cho loài chim bé nhỏ, can trường, giàu lòng trắc ẩn và tình đồng loại lại đang mất dần, mất dần… 


Rời xã Chư Zang tôi còn nghe thấy tiếng kêu khắc khoải của con chim én tội nghiệp vang vọng trong tâm. Không biết những người có trách nhiêïm nơi bản địa có nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng ấy không? Hay họ chỉ còn nghe vấn vương mùi thơm “đặc sản” của loài chim én.
Trước khi kết bài ký này, tôi mang đọc cho mấy người bạn hàng xóm cùng nghe. Một người bạn có vẻ đắc ý cứ gật gù, gật gùø một chặp rồi bất ngờ chỉ vào mặt tôi phán một câu tỉnh khô: “Anh đúng là người ngoài hành tinh”! Tôi giật mình hỏi: “Tại sao ông lại nói thế?” Anh ta mới thủng thẳng trả lời: “Còn không đúng sao! Bây giờ cần gì phải vất vả vào Chư Zang, xứ “khỉ ho cò gáy ấy” để xem chim én. Ngay ở chợ Bình Minh thị trấn Ea Knốp này thôi, buổi sáng muốn mua bao nhiêu chim én mà chẳng có. Ông không tin sáng mai ra xem”!
Có thể nói không ngoa, thị trấn Ea Knốp, huyện Ea Kar là thị trấn công nghiệp đứng vào hàng lớn nhất nhì của tỉnh Đắk Lắk. Vậy người ta bán buôn loài chim quý trái pháp luật như vậy mà vẫn tồn tại ở đây chăng? Không thể nào có chuyện đó xảy ra được; tôi muốn tin như vậy. Thật không ngờ sáng hôm sau tôi theo người bạn ra chợ Bình Minh và chứng kiến người ta bán bốn cái lồng đầy chim én to đùng ngay tại hàng ga, mỗi lồng nhốt tới hàng ngàn con. Cô bán hàng đon đả: “Mua đi các anh, hôm nay có ít; không mua là hết phần đấy”! Tôi ngao ngán đứng nhìn người ta đổ xô vào mua én; người mua năm bảy chục, người trăm, hơn trăm con; song cũng có người mua đúng hai con. Tò mò, tôi hỏi một người mua: “Sao anh mua ít vậy?” Người mua, cười trả lời: “À, rẻ quá chỉ 500 đồng một con, mua về cho bọn trẻ chơi.”
Thật buồn cho “sứ giả mùa xuân”; người ta sao mà vô tình đến vậy? Nhưng cũng phải thôi, người bắt được chim bán 150 đồng một con và người chở én đi chưa đầy 40 km giá đã lên 500 đồng một con. Lãi to thật! Nhưng rồi sẽ ra sao én ơi! Nếu người ta cứ vô tình bước qua pháp luật tự do bắt, bán, ăn nhậu én như thế này?

Mùa thu năm 1998



(Tiếng kêu chim én)

@Sự can thiệp thô bạo của bàn tay con người lên những cánh rừng nguyên sinh, khiến cho nhà văn không khỏi xót xa.


...Ngã ba rừng trắc ngày xưa nay được điểm xuyến bằng trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Ea Sô, trường học, trạm xá trông rất bề thế, khang trang và rừng trắc ngày xưa cũng chìm vào dĩ vãng. Mới mấy năm thôi mà cả cánh rừng trắc đã không còn nữa. Trước đây khi vào khu rừng Ea Sô để tìm kiếm “ hình nông trường lạ”, chúng tôi đã gặp hàng đoàn xe đạp thồ những cây trắc đẽo hết lớp giác ngoài khoe khúc lõi đỏ au, còn hôm nay chỉ thấy nhà và rẫy.
...

Thế nhưng hôm nay ngày trở lại vùng đất xinh đẹp này, đập vào mắt chúng tôi là những vùng đất bị cày, cuốc nham nhở đến sát tận bờ sông Hai. Thảm cỏ gianh ngày xưa trải dài đến ngút cả tầm mắt còn đâu. Vượt qua chiếc cầu tạm bắc chênh vênh qua dòng sông Hai đi thêm mấy chục mét nữa đã đến sân khu nhà làm việc của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô. Quả thật chúng tôi vô cùng ngạc nhiên trước cơ ngơi khang trang, đẹp đẽ của khu nhà làm việc này và ngay trước mặt là con đường nhựa bắt đầu từ đây kéo dài xuống thị xã Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên.
...

Chúng ta không sửng sốt sao được khi Nhà nước đổ tiền của vào đây xây dựng Khu bảo tồn nhằm bảo vệ nguồn gien quí giá may mắn còn sót lại không chỉ ở Việt Nam mà của cả thế giới, thế mà họ nỡ đang tâm chia nhau làm “điền trang thái ấp” ngay trong lòng Khu bảo tồn. Thực chất của việc này thế nào? Nếu tính bắt đầu từ khu nhà làm việc của Ban quản lý Khu bảo tồn xuống đến Hạt kiểm lâm, hai bên đường nhựa có chỗ đã được trồng cây keo tai tượng, bạch đàn khá xanh tốt. Song khi lội vào khu rừng trồng hai bên đường ta sẽ ngỡ ngàng trước chiều rộng của mỗi bên chỉ trên dưới 30 mét mà thôi, còn phía trong chẳng có thêm gì nữa cả. Đi tiếp qua trạm độ 2 km tôi thật sự giật mình khi thấy trải dài hai bên đường trồng toàn khoai mỳ; khoai mỳ ở đây tốt thật, cây nào cây nấy mập mạp, lá xanh ngắt. Qua hết rừng khoai mỳ độ 3km, trước mắt hiện lên những quả đồi trọc cày xới sạch tinh không một cọng cỏ, trải dài đến hết tầm mắt. Chúng tôi tự hỏi chẳng lẽ đây là Khu bảo tồn thiên nhiên hay sao? Họ giữ cái gì khi rừng bị cày xới ngang dọc trồng khoai mỳ và chờ mùa mưa tới để trồng các loại cây ngắn ngày khác. Xa hơn chút đến gần bờ sông Hinh, phần cuối của Khu bảo tồn được điểm xuyến bằng những bầy bò đủng đỉnh theo nhau dạo bước. Những bầy bò đó là bò nhà chứ không phải bò rừng. Thế ra Khu bảo tồn này lại có vùng “đặc dụng” của một số người dùng làm vườn, làm trang trại phát triển kinh tế. Có lẽ nhờ “phép màu thần kỳ”,Khu bảo tồn thiên nhiên bỗng chốc biến thành trang trại, tạo công ăn việc làm cho những người “thất nghiệp”. Cũng theo ông Hạt trưởng kiểm lâm Ea Sô cho biết, mỗi trang trại thường có từ bảy đến mười người làm việc, số người vào làm đều có báo cáo cho Hạt biết. Vậy trong số mấy chục con người ở rải rác trong khắp Khu bảo tồn ấy, ai có thể dám chắc là họ chỉ làm thuê cho chủ trang trại chứ không tàn phá cây cối, săn bắt chim thú.



(Ea Sô sau những đêm động rừng

@Lối hành sử của con người như thế nào với thiên nhiên, thì tất yếu nhận được sự đáp trả của thiên nhiên như thế đó.
...

Dòng Krông H’Năng vẫn chảy, những ngôi nhà sập tường, tốc mái đã được dựng lại; nhưng những vết thương thì còn lại mãi với những người thân, không dễõ gì hàn gắn được. Thiên tai quả là khủng khiếp. Có phải do người dân chủ quan vì lâu lắm rồi chưa ai thấy lũ lụt ghê gớm như thế xảy ra. Hay tại hệ thống cảnh báo của chúng ta chưa tốt, không dự báo trước được những trận lũ quét lớn sẽ xảy ra! Hay tại con người cạo trọc rừng xanh nên thiên nhiên giận dữ trút nước xuống, dồn lại thành thác lũ trả thù con người!...

Vâng! Sau tai họa người ta đang mổ xẻ tìm ra nguyên nhân, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để tai họa không còn giáng xuống đầu người dân như thế nữa. Cơn lũ đã đi qua, cuộc sống dần trở lại sự bình yên như vốn cóù. Điều đó ghi nhận sự cố gắng rất lớn của Đảng, chính quyền xã Phú Xuân nói riêng và huyện Krông Năng nói chung. Chúng ta tin và mong rằng với truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam “lá lành đùm bọc lá rách”, người dân vùng lũ xã Phú Xuân sẽ gồng mình đứng lên gây dựng lại cơ đồ tươi đẹp hơn những gì vừa bị dòng lũ cướp mất.
        Tháng 8 năm 2007



(Nơi cơn lũ đi qua)

@Cảm thông với nỗi vất vả của các chiến sĩ bộ đội biên phòng khiến cho ngòi bút của Hồng Chiến cũng trào tuôn xúc cảm.
...

Đêm về khuya, trời nổi gió, sấm nổ đì đùng và những hạt mưa đầu mùa lắc rắc rơi lên mái tôn. Gió gào thét cuốn theo những hòn đá ném lên mái tôn kêu loảng xoảng. Vài phút sau mưa trút xuống xối xả như người ta dùng vòi nước mà đổ. Con suối cạnh đồn khi chiều đi qua chỉ đọng vài vũng nước, giờ nổi cơn thịnh nộ gầm rú như voi lồng. Tôi lên giường thao thức mãi không ngủ được. Vì nghề nghiệp, tôi đi nhiều, dọc ngang gần khắp nước, nhưng chưa ở đâu khí hậu khắc nghiệt như vùng biên giới này. Vừa nắng như thiêu như đốt, giờ lại đã thấy lạnh như mùa đông miền Bắc, đắp chiếc chăn bông hầu như cũng chưa đủ ấm. Cũng vì nghề nghiệp, tôi đã ăn cơm với các đơn vị quân đội khá nhiều, nhưng chưa nơi nào chiến sĩ liên lạc lại ngồi ăn chung, cùng chỉ huy tiếp khách như trong một gia đình như thế này. Cách xưng hô, cách xử sự của các anh nơi đây làm tôi thật bất ngờ. Có lẽ những người lính nơi biên cương, tất cả đều là anh em một nhà, mái nhà chung là đồn. Sau những ngày tuần tra, mật phục, vất vả, gian khổ, nhiều lúc ranh giới của cái sống và cái chết mỏng manh như sợi tóc, các anh lại trở về nhà mình  nghỉ ngơi, lấy lại sức vài hôm để rồi lại lên đường tiếp tục làm nhiệm vụ. Tình cảm chân tình giữa sĩ quan và chiến sĩ thương yêu nhau như anh em ruột thịt, đó có thể chính là sức mạnh của bộ đội Cụ Hồ, của những người canh giữ biên cương mang lại bình yên cho Tổ quốc.


(Ghi chép nơi biên cương).

@Chuyện kể về ông giám đốc sống trong ngôi nhà đơn sơ, nhưng những gì ông để lại cho xã hội không những là một khối gia tài lớn , mà còn là lòng nhiệt huyết và cái tâm trong công việc.
...

Câu chuyện của ông Nguyễn La Vân về quãng đời của mình làm chúng tôi rất cảm động. Con người có vóc dáng mảnh khảnh, khuôn mặt cương nghị, râu tóc bạc phơ này được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở thị xã Quảng Ngãi. Năm 1947, khi chưa đầy 14 tuổi ông bí mật “nhảy núi” gia nhập quân đội, năm 16 tuổi được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1954 tập kết ra Bắc, năm 1958 chuyển ngành qua Bộ Nông Trường, công tác tại Nông trường 1- 5 huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An, năm 1978 được bổ nhiệm làm Giám đốc Công ty Khai hoang Cơ giới 4 phụ trách khu vực miền Trung và Tây Nguyên, năm 1993 về hưu. Tóm tắt tiểu sử của ông thật ngắn gọn nhưng không hề đơn giản tí nào. Người con xứ  Quảng có cuộc đời như một pho tiểu thuyết của một vị anh hùng lại rất giản dị và đôn hậu. Qua câu chuyện của ông và anh em trong công ty kể lại, tôi chỉ xin ghi lại đôi nét một quãng đời công tác đương nhiệm giữ chức Giám đốc Công ty Khai hoang Cơ giới 4 của ông mà thôi. 
...

Ông giám đốc già chuẩn bị nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, sức khỏe giảm sút nhiều nhưng trong con người ông vẫn còn ngọn lửa cách mạng rực cháy như thời trai trẻ. Thật mừng khi lớp cha anh đi trước là những con người tài năng, đặt nền móng vững chắc cho lớp con em đi sau tiếp bước vào kỉ nguyên mới, thời đại mới, trong xu thế hội nhập nhưng vẫn giữ được bản chất người bộ đội cụ Hồ.



(Chuyện của một vị giám đốc về hưu).

@Rồi chuyện về những người lính Sư đoàn 333, hôm qua họ cầm chắc tay súng trên mặt trận chiến đấu với kẻ thù, hôm nay họ là những người lính xuất sắc trên mặt trận kinh tế.
...

Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), tôi liên hệ với Tổng Giám đốc Công ty Mía đường 333 để chuẩn bị cho anh em văn nghệ sĩ xuống thực tế sáng tác. Tôi chọn công ty này vì đơn vị nguyên là những người lính chiến đấu trong chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; hoà bình lập lại, các anh còn phải ngã xuống trong các trận đánh truy quét bọn phản động Fulrô, mang lại cuộc sống thanh bình cho người dân Tây Nguyên; và hơn nữa, tôi có nhiều kỉ niệm đẹp với sư đoàn làm kinh tế này. 
...

Sư đoàn 333 được thành lập tháng 10 năm 1976. Sư đoàn bộ đóng tại buôn Ea Knôp, huyện Krông Păc, tỉnh Đắk Lắk. Đơn vị đóng quân trên địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Phú Khánh. Nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị: vừa làm kinh tế, vừa truy quét Fulrô, đảm bảo an ninh cho khu vực. Năm 1985, tình hình an ninh ổn định, Sư đoàn được chuyển giao cho Bộ Nông nghiệp và đổi tên thành Xí nghiệp liên hợp 333.
...
Theo quy luật, công nghiệp phát triển sẽ kéo theo cuộc sống người dân trong vùng  được nâng lên. Quy luật là thế, nhưng nếu ta không tổ chức tốt sẽ chỉ có một bộ phận giàu lên, còn không ít người lao động chân chính chỉ ở mức thoát nghèo. Những anh bộ đội sư đoàn 333 năm xưa, nay là công nhân hay nông dân trên vùng quê mới, không những đã đánh giặc giỏi mà còn biết làm kinh tế giỏi, dẫu rằng vẫn còn nhiều khó khăn trước mắt. Nhưng chúng ta tin và hy vọng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính quyền địa phương, khó khăn nào rồi cũng sẽ vượt qua, sẽ có bước phát triển vượt bậc, góp phần làm giàu cho một vùng quê nghèo, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người nói chung và khu công nghiệp mía đường 333 nói riêng.


Tháng 8  năm 2009


(Những người lính hôm qua).

@Những kỉ niệm của ngày đầu tiên bước vào mảnh đất Tây Nguyên làm nhiệm vụ "Trồng người"luôn khắc sâu trong tâm khảm nhà văn.


… Ngày ấy đoàn giáo sinh Thanh Hoá được phân công về huyện M’Drắk gồm mười chín người, trong đó riêng huyện Nông Cống đã có tới mười người, tám nam, hai nữ; huyện Hoằng Hoá có ba người; huyện  Nga Sơn bốn người, huyện Quảng Xương hai người. Đến đón chúng tôi tại trường Trung học sư phạm (hồi đó còn ở cạnh sân bay Hoà Bình), ông Lê Văn Phú, Trưởng ban giáo dục huyện bắt tay từng người đưa lên chiếc xe khách thuê của hợp tác xã vận tải M’Đrắk lên đón. Cả đoàn giáo sinh được đưa về trường cấp I - II Krông Zin ở tạm. Đây nguyên là trường tiểu học thời Ngụy nên cơ sở vật chất còn tàm tạm; Ban Giáo dục huyện cũng lấy hai phòng làm nơi ăn ở và làm việc. Những ngày đầu đến nhận công tác tất cả anh em giáo viên đều ở chung, cùng ăn với cán bộ ban giáo dục. Ngày ngày các thầy cô giáo lếch thếch cuốc bộ đến các buôn dân tộc người Ê Đê vận động con em đến tuổi ra lớp học đặt ngay tại buôn. Nhiều buôn cách xa nơi ở sáu, bảy ki-lô-mét nhưng ai cũng vui vì cuộc sống tập thể và vì con nhà nông lần đầu tiên được làm thầy, làm cô… Thời ấy chưa ai có xe đạp, nhưng hàng tháng, hàng quý vẫn được phân phối phụ tùng xe đạp (tiêu chuẩn mà!). Cánh thanh niên không màng tới vì không biết lấy cái xăm, cái lốp hay cái xích, cái đèn xe đạp để làm gì. Qua năm 1978, tình hình căng hơn do bọn Fulrô hoạt động mạnh, các trường được thành lập thêm nên các thầy cô giáo cũng phải chia tay nhau xuống các buôn lập lớp dạy học. Tôi vẫn ở lại trường cũ giảng dạy, mặc dù phải đi bộ đến lớp cách xa nơi ở gần 5km.

Cuộc sống cứ bình lặng trôi đi, cái đói lúc đó là căn bệnh thường niên nhưng từ nhỏ cho đến khi làm thầy giáo, bọn chúng tôi hầu như chưa bao giờ được bữa no thì đói có là gì. Chỉ tội nghiệp hai cô bạn đồng hương cùng huyện ngày ngày theo chúng tôi đi dạy đến trưa về măït cứ tái mét vì đói; các cô không dám ăn vặt những thứ mà người dân trong buôn mang cho như cánh đàn ông. Khó khăn gian khổ là vậy nhưng chúng tôi vẫn rất vui vẻ bên nhau và đặc biệt cán bộ huyện, ban giáo dục và nhà trường sống với nhau như trong một gia đình, ấm cúng, vui vẻ.
Cuộc sống bỗng nhiên bị xáo trộn một cách đầy bất ngờ. Vào một đêm cuối tháng ba, khoảng hơn 21 giờ, chúng tôi đang quây quần soạn bài, bỗng giật mình bởi tiếng nổ chát chúa của đạn M72, rồi sau đó là tiếng M79, AR16 nổ như ngô rang, buôn Dak cách trung tâm thị trấn M’Đắk khoảng 3km bốc cháy sáng cả góc trời. Tiếng đạn cối của công an, huyện đội nã dồn dập nổ như pháo tết về phía sân bay chặn đường rút của bọn Fulrô. Chúng tôi chạy ra hè nhà đứng nhìn về phía lửa cháy mà lòng đau xót, lo lắng vô cùng; vì nơi đó chính là trường nội trú huyện mới được thành lập, học sinh còn gửi ở tạm nhà dân, các thầy cô có hai căn nhà gianh vách che bằng những tấm ghi lát sân bay, vừa làm nơi ăn chốn ở, vừa là nhà ăn cho các em học sinh. Khoảng gần một tiếng sau, tiếng đạn nổ chỉ còn cầm chừng, chúng tôi chợt thấy ba bóng người lảo đảo chạy vào sân trường. Cả bọn ùa ra hét ầm lên khi nhận ra hai thầy và một cô giáo, không guốc dép, bàn chân tóe máu, quần áo bị rách lỗ chỗ, vừa chạy thoát từ trường nội trú về. Cả ban giáo dục và cánh giáo viên ở tập thể ôm chầm lấy các thầy cô, mắt ai cũng rưng rưng. Trong cái rủi có cái may, toàn bộ buôn Dak bị thiêu rụi, 21 em học sinh bị thương, nhà hiệu trưởng, hiệu phó đều trúng đạn bốc cháy, tài sản mất sạch; nhưng không ai chết cả. Đau xót nhất khi chứng kiến cảnh một anh công an huyện và một trung uý quân đội bị bọn Fulrô bắn nát người một cách dã man ngay trước cổng trường; nếu không có hai người ấy thì tính mạng của hơn hai trăm thầy và trò sẽ ra sao!
Sau trận đó, học sinh nhiều em bỏ chạy về buôn, không dám đến học nữa. Các thầy cô, các ban ngành trong huyện lại phải đến từng nhà vận động các em đi học, tìm mọi cách có thể để đưa các em về trường. Thời ấy có một vị lãnh đạo Ty giáo dục Đắk Lắk từng nhấn mạnh: lấy số lượng làm chất lượng. Chúng ta đưa được các em về trường là thắng lợi. Ngày ấy người dân còn cực khổ lắm, bữa đói bữa no; nhiều gia đình còn phải ăn khoai mài đào trong rừng thay cơm. Các em đến trường học được cấp quần áo, chăn màn, giày dép, sách vở và ngày ba bữa ăn dù cơm còn phải độn thêm bắp, khoai nhưng không bao giờ bị đói; vậy mà vận động các em đến trường cũng vô cùng cực nhọc.
Đầu tháng 7 năm 1979 Ủy ban nhân dâân huyện M’Đrắk có chủ trương thành lập trường nội trú tại các xã, vì thế tôi được cử về xã Ea Trang, xã cuối cùng của huyện, giáp với tỉnh Phú Khánh, để chỉ đạo xây dựng trường kịp khai giảng năm học mới. Cả xã Ea Trang lúc bấy giờ chỉ có một hộ gia đình người Kinh làm nghề thầy cúng với bốn khẩu, còn lại là người dân tộc Ê Đê. Đi suốt chiều dài của xã theo quốc lộ 21 (sau này đổi tên quốc lộ 26A) hơn 30 km không tìm đâu được đám đất bằng khoảng một hecta để dựng trường; cuối cùng phải chọn đỉnh một ngọn đồi ngay tại thôn Hai, đối diện với trạm kiểm soát Phượng Hoàng của công an huyện, bên cạnh quốc lộ 21 để dựng trường. Tôi cùng với anh Chế Đình Đống - Trung úy quân đội người Nghệ Tĩnh tăng cường về làm Bí thư xã - vận động nhân dân đốn cột, cắt gianh, dựng được 8 phòng học, nhà kho, nhà ăn, nhà ở cho học sinh. Tuy nhà gianh vách nứa nhưng cao ráo, thoáng mát không thua kém bất kì ngôi nhà nào ở quê nghèo xứ Thanh tôi. Ngày khai trường, Ông Y Din - Chủ tịch huyện và ông Trưởng ban giáo dục Lê Văn Phú, cứ tấm tắc khen mãi. Có lẽ tôi “mát tay” làm phong trào nên bàn giao công trình xong, các ông lại điều tôi về trường nội trú xã Krông Zin, một trường còn xây dựng dang dở mà vẫn phải khai giảng…
Có lẽ tại cái số xây dựng xong cơ sở vật chất, tôi được ở lại trường phụ trách lao động. Thời ấy tiêu chuẩn học sinh nội trú tương đối cao, mỗi em hàng tháng được cấp 15 kg lương thực, quần áo, chăn màn và tiền tiêu vặt, nhưng nhiều em vẫn bỏ học không chịu đến trường. Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, lương thực rất khan hiếm, nhiều nơi phải cấp lương thực bằng đậu xanh, hạt mạch thay thế. Vì vậy huyện tổ chức khai hoang trồng khoai mì, học sinh nội trú cũng được điều động đi khai hoang. Trường nội trú Krông Zin được phân công cuốc đất trên một quả đồi phía sau trạm kiểm soát Khánh Dương. Buổi sáng hôm ấy, tôi cùng các em học sinh mải mê cuốc đất đến gần trưa, em Y Đoan lại bên tôi nói: Thầy nghỉ lại uống nước, để em làm cho! Tôi đưa cuốc cho Y Đoan và đi lại bên đường quốc lộ 21 để uống nước. Đi chưa được năm chục mét, bỗng tôi nghe một tiếng nổ lớn, giật mình quay lại; ngay chỗ tôi đứng cuốc lúc nãy, một cột khói đen bốc lên, bảy em học sinh đang quằn quại trên mặt đất. Tôi lao lại chỗ Y Đoan, em nằm bất tỉnh; mặt xạm đen vì khói thuốc; bụng, tay máu phun ra thành dòng. Cô Nguyễn Thị Hồng chạy lại cởi khăn đưa cho tôi buộc lại vết thương cho Y Đoan. Các thầy cô và nhân viên y tế của trường xúm lại băng bó cho các em bị thương. Có em hoảng quá vừa chạy vừa khóc, máu chảy thành dòng trên mặt đất. Các thầy phải chạy theo giữ lại để băng bó. Khi xe đưa các em lên viện cấp cứu rồi, tôi lại chỗ Y Đoan nằm thấy lưỡi cuốc con gà Trung Quốc bị xé nát, mặt đất thủng một lỗ lớn như chiếc mẹt. Vô tình tôi đã để Y Đoan gánh thay trọn vẹn một quả mìn. Cũng may, nhờ cấp cứu kịp thời tất cả các em chỉ bị thương, không ai chết cả. Riêng Y Đoan nhờ lưỡi cuốc chắn mãnh đạn nên chỉ bị thương nặng. Vậy là để những người học trò bé nhỏ ở huyện M’Đrắk đến được với cái chữ, không những thầy cô giáo mà cả học sinh đã phải đánh đổi bằng chính xương máu của mình.
 



(Gian nan đường đến cái chữ).
@Vấn đề trường học bao giờ cũng được Hồng Chiến quan tâm hàng đầu.
...

Theo như Hiệu trưởng Nguyễn Xuân Việt trao đổi với tôi thì thuận lợi cơ bản của nhà trường là xây dựng được tập thể Hội đồng sư phạm đoàn kết, dân chủ, tôn trọng lẫn nhau, đó là nguyên nhân chính dẫn tới thành công. Bên cạnh đó còn có sự quan tâm đặc biệt của Phòng giáo dục huyện, Đảng uỷ và chính quyền xã Phú Xuân trong mọi hoạt động của nhà trường. Chính nhờ sự quan tâm ấy mà hiện nay khuôn viên của trường được mở rộng, cấp trên đánh giá là rộng và đẹp nhất huyện, đạt chuẩn quốc gia. Sự đầu tư về cơ sở vật chất cho công tác dạy và học của nhà trường trong các năm vừa qua tương đối đồng bộ. Ngoài ra, Công ty Cà phê 49 - nơi trường đóng, cũng có chính sách ưu tiên với toàn thể anh chị em cán bộ công nhân viên của cả ba cấp học đóng trên địa bàn công ty; đây cũng là nguồn động viên rất lớn đối với những người được cử vào đây công tác. Như sợ tôi không tin, các anh mời tôi tới khu làng giáo viên. Quả thật tôi rất bất ngờ khi thấy con đường rải nhựa phẳng lì nối từ nhà làm việc của Công ty Cà phê 49 tới cổng trường Tiểu học Võ Thị Sáu dài gần một ki-lô-mét, hai bên đường được phân lô, mỗi lô rộng 8m, dài 20m cấp cho các cán bộ, giáo viên đang công tác trong các trường đóng trên địa bàn Công ty. Thầy Nguyễn Văn Hiệp nói thêm: Nhiều người mới về trường, chưa lập gia đình, công ty vẫn ưu tiên nhượng lại đất như các hộ gia đình giáo viên công tác lâu năm ở đây. Cán bộ giáo viên trường Nguyễn Tất Thành chỉ có một trường hợp giáo viên vừa về nhận công tác đầu năm học này là chưa có đất, còn lại ai cũng có đất làm nhà, dù đang độc thân, chưa có gia đình. 


Có thể thấy đây là một cách giữ người hết sức khéo léo của lãnh đạo Công ty Cà phê 49, họ đã làm đúng như cha ông từng khuyên: muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy! Nhưng ở đây không những yêu mà còn tìm cách giữ lại, muốn các thầy cô gắn chặt cuộc sống, sự nghiệp của mình với vùng đất và con  người nơi đây. Tận mắt nhìn những ngôi nhà đã xây và đang xây dang dở của làng giáo viên, lòng tôi bỗng thấy nao nao, giá như nơi nào cũng như Công ty Cà phê 49 quan tâm đến cuộc sống của các thầy cô như thế, chắc chắn sự nghiệp giáo dục của chúng ta sẽ có bước tiến vượt bậc.


(Có một ngôi trường như thế ).

@Cho dù Hồng Chiến đề cập đến rất nhiều chuyện, nhưng người đọc dễ nhận ra tính thời sự nổi lên trước hết. Nó thể hiện ở trong cách trình bày vấn đề, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia - một vấn đề được xã hội hết sức quan tâm. Điều đặc biệt hơn là tác giả cũng chính là người đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề đó.
...

Cầm tờ giấy mời về dự lễ đón Bằng công nhận Trường đạt chuẩn quốc gia, lòng tôi bồi hồi xúc động. Thế là đã hơn 22 năm rồi. Thời gian trôi đi nhanh quá. Ngày 10 tháng 8 năm 1986, thầy Vũ Thế Hiển - Trưởng phòng giáo dục, mời tôi lên trao quyết định của Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar thành lập Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Văn Trỗi đóng trên địa bàn Nông trường 52 và bổ nhiệm tôi làm Hiệu trưởng cùng hai Hiệu phó: Nguyễn Thị Thanh Hương - phụ trách chuyên môn cấp II và Nguyễn Thị Thanh - phụ trách chuyên môn cấp I. Thời bấy giờ Trường Phổ thông cơ sở bao gồm cả mẫu giáo, cấp I và cấp II. Cơ sở vật chất của trường tuy mới thành lập nhưng so với các trường khác trong toàn huyện không nhất cũng nhì. Được Nông trường 52 đầu tư xây dựng, nên ngoài sáu phòng học xây cấp bốn, mái ngói đỏ tươi, các phòng học khác đều được lợp tôn, thưng ván; bàn ghế học sinh, giáo viên được trang bị đầy đủ theo yêu cầu. Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc Nông trường 52 thời ấy đã nói với tôi: “Mình lo nhất là con em công nhân đi học xa vất vả, mong có được ngôi trường ở gần để các cháu có điều kiện theo học. Có văn hóa mới có tri thức để nhận thức đúng và làm việc tốt hơn. Công nhân có thể vất vả thêm một tí, nhưng con cái được học hành đến nơi đến chốn thì họ sẽ an tâm công tác. Thầy xem có cần gì cứ đề xuất, nếu Nông trường giúp được gì sẽ giúp”!

 Phòng làm việc của Hiệu trưởng chung tường với phòng họp hội đồng, rộng 3,5m, dài 5,5m; được trang bị bàn ghế, tủ hồ sơ đóng bằng gỗ hương; ấm, chén, phích nước Trung Quốc mới tinh. Trong thời gian ấy nhiều trường ở huyện Ea Kar, học sinh phải học trong các phòng tạm bợ mái gianh, vách đất, bàn ghế đóng bằng những tấm bìa gỗ hoặc hai cây tre ghép lại, ban giám hiệu có trường phải ở tạm nhà dân, không có chỗ làm việc. Tôi thấy mình có cơ ngơi như vậy là quý lắm rồi nên chỉ đề xuất: Nếu được, anh cho trường 10 ngàn đồng mua cho anh em ở tập thể một tay lưới đánh cá cải thiện”. Khi ấy các hồ chứa nước của nông trường thả cá rô phi nhiều lắm, ai muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Ông Giám đốc cười: “Thế thôi à! Thầy cho người sang phòng Tài vụ nhận 15 ngàn đồng, mai tôi cho xe chở lên Buôn Ma Thuột mua luôn. Nhờ có tay lưới ấy hơn chục cán bộ giáo viên trường ở tập thể đỡ phải mua thức ăn. Chiều chiều, sau khi tan trường, khu tập thể chỉ để lại hai người nấu ăn, số còn lại kéo nhau đi thả lưới, bắt ốc. Nửa giờ sau thu lưới, hôm ít cũng được vài ký, hôm nhiều phải năm sáu ký. Bữa cơm nào cũng có ít nhất ba món cá: chiên, kho, canh chua; hôm nào các thầy cô siêng một chút có thêm món ốc xào chuối. Thời bao cấp ngày ấy có cuộc sống vật chất như vậy quả là nhiều trường mơ cũng không được. Đầu tháng 10, ông Giám đốc Cao Văn Hùng đến văn phòng nói với tôi: Ăn thế nào làm thế ấy! Ăn cơm dạy cơm, ăn khoai dạy khoai. Người ta lo chạy ăn từng bữa làm sao dạy chất lượng được. Tôi đã bàn với Đảng ủy và Ban giám đốc rồi, Nông trường sẽ cấp cho mỗi thầy cô 500m2 đất làm nhà ở khu phía sau trường, gần suối thuận tiện sinh hoạt. An cư mới lạc nghiệp được. Mời thầy đi xem”.
Có lẽ làng giáo viên đầu tiên của huyện Ea Kar đã ra đời như vậy. Ngẫm ra cái ông Giám đốc Cao Văn Hùng, nguyên là Trung đoàn trưởng quân đội nói chí phải. Từ thực tế các phong trào Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Văn Trỗi qua từng năm tháng là một minh chứng cho nhận xét mộc mạc nhưng thật đúng của ông. Vì công việc tổ chức phân công, thời gian sau tôi chuyển công tác đi nơi khác nhưng những kỷ niệm ngày đầu thành lập trường còn in đậm trong tim.


(Những cánh chim không mỏi).

@Từ một chuyến đi công tác đã cho tác giả nhiều trải nghiệm.

...

Tôi thật bất ngờ trước cách tiếp đón của gia đình. Về một buôn người Êđê được chứng kiến vườn, nhà, tiện nghi sinh hoạt và cả phong cách sống như người thành thị, không ngạc nhiên sao được. Cuộc sống mới mà Đảng và Nhà nước mang lại làm đổi thay vùng đất Tây Nguyên giàu đẹp này. Sự thay đổi ấy diễn ra trong từng ngôi nhà, từng con người, từng phong cách sống, giao tiếp. Ba anh em vừa lai rai vừa tâm sự. Qua câu chuyện, tôi biết anh chủ nhà tên Y Tâm, quê tận  thành phố Buôn Ma Thuột “bị” vợ bắt về đây. Cuộc sống khi hai người mới lấy nhau vô cùng cơ cực. Vùng đất trù phú ngày nay, xưa kia là những cánh rừng nối tiếp nhau chạy dài đến hết cả tầm mắt. Sau giải phóng đồng bào lập hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng cuộc sống mới, biến mảnh đất hoang vu thành mảnh đất thanh bình đầm ấm, cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc. Thật khó tin một hộ gia đình người dân tộc bản địa, không những đủ ăn, có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt hiện đại, mà sáu đứa con đều được học hành tử tế. Cô gái đầu có cái tên rất đẹp H’HaNa đang học năm thứ ba tại trường đại học Đà Lạt, cô thứ hai H’Vêra học xong lớp mười hai dứt khoát ở nhà ôn thêm năm nữa để thi vào đại học, chứ nhất định không đi học trung cấp; cậu thứ ba Y Za Nai học lớp mười một và cô thứ tư - H’Biểu học lớp mười, tại Trường nội trú Ama Trang Lơng, cô thứ năm H’Nhai học lớp chín và cậu út Y Thiêu học lớp tám gần nhà. Đoán được sự băn khoăn của tôi trước cuộc sống có phần sung túc của gia đình, Y Tâm cho biết thêm: “Mình từng làm cán bộ Công ty Bông Đắk Lắk, vận động nhân dân trong vùng trồng bông, góp phần giúp nhiều hộ gia đình nâng cao thu nhập, phá thế độc canh trước đây chỉ trông chờ vào ba cây trồng chính là lúa, bắp và cà phê. Còn bây giờ cây nông nghiệp được trồng đa dạng, nhiều loại giống mới được nhân dân đưa vào trồng, có năng suất cao góp phần làm giàu cho người dân trong vùng. Sắp tới đập Krông Buk Hạ hoàn thành, nhiều cánh đồng lúa trước đây chỉ trồng một vụ sẽ được thâm canh tăng lên hai, ba vụ, thu nhập của nhân dân trong vùng được nâng cao hơn nữa. Do kinh tế phát triển, người dân giàu lên, nhu cầu mua sắm cũng tăng cao nên ngày nay nhiều hộ bung ra mở tiệm buôn bán, phục vụ nhu cầu bà con không chỉ ở trong buôn mà vươn ra cả các vùng lân cận”.

Trời về chiều, tiếng công nông nối nhau gầm rú chở bắp, chở cà phê vừa thu hoạch về buôn. Nhà nào vào thời điểm này cũng thấy để trước sân từng đống bắp cao như núi, mảnh sân trước nhà rải kín cà phê. Nhìn từng đoàn xe tấp nập chạy về, trên xe chất đầy các bao tải vừa thu hoạch; ngồi vắt vẻo trên đống bao bì đó là những người với khuôn mặt rạng rỡ, miệng nở nụ cười tươi, lòng tôi cảm thấy vui vui vì biết đó là dấu hiệu của một vụ mùa bội thu. Đời sống đã thực sự thay đổi trước ngưỡng cửa của một năm mới sắp về.
Giờ đây cuộc sống của đa số người dân buôn Puăn A không những đủ ăn, có của để dành, xây dựng được những ngôi nhà khang trang, mà nhiều hộ đã trở nên giàu có. Nhiều nhà không những sắm đầy đủ tiện nghi phục vụ sinh hoạt gia đình, còn mua được máy móc phục vụ sản xuất, tăng năng suất lao động. Theo Y Tâm, cái quan trọng nhất để nâng cao mức sống cho bà con dân tộc nơi đây là tạo điều kiện và chỉ cho người dân biết cách làm giàu, chứ không phải cầm tay dắt người ta theo đi làm giàu, cho người ta tiền để người ta giàu. Ý tưởng như một triết lý ngẫm ra lại đúng. Người dân áp dụng khoa học để phát triển nền sản xuất hàng hóa, xoá đi nền sản xuất tự cung, tự cấp. Cơ chế thị trường đã và đang trực tiếp tác động đến đời sống người dân nơi đây. Cái được lớn nhất là đời sống đa số hộ được cải thiện và nâng cao, con em được học hành, đời sống dân trí được mở mang; song bên cạnh đó cái mất cũng rất đáng quan tâm như nhiều thanh niên bây giờ chỉ thích uống rượu, hát kraôkê mà quên đi truyền thống dân tộc, thậm chí không biết cả cách đánh chiêng của dân tộc. Ông Y Tó buôn trưởng thở dài và nói thêm: “Anh về trên ấùy đề nghị với chị Linh Nga cho người về dạy cho cánh thanh niên học đánh chiêng với, chiêng còn đấy nhưng bọn trẻ quên hết rồi”.
Nỗi trăn trở của buôn trưởng cũng đúng thôi, cồng chiêng Tây Nguyên cha ông bao đời để lại được cả thế giới công nhận là “Văn hoá phi vật thể, kiệt tác của nhân loại” vậy mà người dân bản địa lại quên, không biết đến thì quả là có lỗi. Nhưng khôi phục lại như thế nào thì một mình buôn trưởng với Hội Văn hóa nghệ thuật Đắk Lắk không thể làm nổi, mà phải có sự đồng bộ của các cấp chính quyền cũng như cơ quan chuyên môn mà trực tiếp phải là phòng Văn hóa thông tin huyện. Là người dân tộc Ê Đê, có trong tay cả bộ chiêng quý giá mà không biết sử dụng thì đáng tiếc lắm thay. Thiết tưởng các cơ quan lãnh đạo văn hoá địa phương cần suy nghĩ nghiêm túc vấn đề này.
Cái may cho phong trào ở đây, cán bộ địa phương còn muốn giữ lại truyền thống văn hoá dân tộc, còn trăn trở với bản sắc dân tộc đang ngày môït mai một mà tìm cách khôi phục lại. Với tấm lòng vì dân, vì phong trào như thế, tôi tin một ngày không xa các buôn người dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung và buôn Puăn A nói riêng không chỉ nhà cửa khang trang, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình hiện đại, mà sẽ còn rộn rã tiếng chiêng trong những ngày lễ hội truyền thống.

Tháng 10 năm 2006


(Những đổi thay trên một vùng đất).

@Sự quan tâm của chính quyền đại phương luôn là điểm tựa vững chắc về đời sống tinh thần cho nhân dân.
...

Chuẩn bị kỷ niệm 25 năm ngày thành lập huyện Cư M’gar (23/01/1984 - 23/01/2009), huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện phối hợp với Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk mở trại sáng tác văn nghệ tại địa phương, nhằm tạo điều kiện cho các nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh cũng như tiềm năng to lớn về du lịch nơi đây, đồng thời chứng kiến cuộc sống mới của người dân đang ngày một khởi sắc. Cách làm này của lãnh đạo Đảng - chính quyền huyện Cư M’gar ngay sau khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 23 về văn học - nghệ thuật đã thể hiện sự nhanh nhạy của địa phương khi thực hiện nghị quyết, ghi dấu ấn quan trọng của văn nghệ đối với đời sống tinh thần xã hội. 
...

Trong tiếng chiêng rộn ràng, chủ nhà mời khách cùng múa hát quanh bếp lửa và thưởng thức rượu cần. Tiếng chiêng, tiếng hát ngân dài xuyên qua màn đêm, xua tan đi cơn mưa dầm rả rích. Ngôi nhà sàn rộng là vậy mà vẫn cảm thấy chật chội vì già trẻ, gái trai cả làng kéo đến chung vui. Thật mừng cho một vùng đất trù phú, kinh tế phát triển lại có 26 dân tộc anh em ở khắp mọi miền đất nước về đây sinh sống, chung tay xây dựng cuộc đời. Và, càng mừng hơn khi thấy bản sắc văn hóa của từng dân tộc vẫn tồn tại và phát triển. Điều gì làm nên kì diệu cho vùng đất này như vậy? Có lẽ đó chính là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và chính quyền địa phương nơi đây. Cách đây hơn mười năm về trước, ông Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Cư M’gar Lê Đức Thắng (bây giờ đương chức Phó Chủ tịch huyện), lên gặp nhà thơ Hữu Chỉnh - Chủ tịch Hội văn học - nghệ thuật Đắk Lắk lúc bấy giờ để đặt vấn đề mở trại sáng tác văn học cho các cháu thiếu niên nhân dịp hè. Nhà thơ Hữu Chỉnh hoan nghênh ý tưởng mới mẻ đó và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ để Phòng Văn hóa - thông tin huyện tổ chức thành công trại viết đầu tiên do Hội văn học - nghệ thuâït Đắk Lắk đỡ đầu. Hơn chục năm qua, có lẽ trên khắp mọi miền đất nước chưa có nơi nào làm được như huyện Cư M’gar: cứ mỗi độ hè về lại tổ chức mở trại sáng tác thơ văn cho các cháu thiếu niên đang là học sinh phổ thông có năng khiếu văn học; và khi trại hè kết thúc, các tác phẩm dự trại được tuyển chọn in thành tập Núi hoa. Từ cách nhìn nhận vấn đề đến cách thực hiện ý tưởng táo bạo, sát với tình hình thực tế như vậy nên phong trào văn nghệ của huyện luôn gặt hái những thành tích đáng tự hào qua các cuộc thi do tỉnh tổ chức. Cũng từ những trại sáng tác hè đã ươm mầm cho nhiều  thế hệ trở thành những nhà báo, nhà giáo dạy giỏi văn. Thế mới biết, cái quan trọng là ở người lãnh đạo; họ biết nhìn xa trông rộng, áp dụng các chủ trương, nghị quyết vào cuộc sống một cách thiết thực có sáng tạo sẽ tạo dựng được một phong trào sâu rộng và bền vững, góp phần quyết định làm giàu mạnh và phồn vinh cho cả vùng đất.
Sau hai mươi lăm năm thành lập, đến hôm nay Đảng bộ và nhân dân huyện Cư M’gar có thể tự hào đã xây dựng được một vùng đất mạnh về kinh tế, vững về an ninh - quốc phòng và đời sống văn hóa - giáo dục ngày một phát triển đúng theo chủ trương nghị quyết của Đảng đã vạch ra. Từ vùng quê khí hậu khắùc nghiệt nhưng con người đã biết cải tạo biến nó thành trù phú phục vụ con người, mang lại hiệu quả tốt đẹp. Có người nói: Thủ trưởng nào phong trào ấy - quả đúng không sai! Vùng đất của huyện Cư M’gar (tên gọi theo tiếng dân tộc Ê Đê - dịch qua tiếng phổ thông Cư là núi, M’gar là hoa; Cư M’gar có nghĩa là Núi Hoa) của tỉnh Đắk Lắk không những kinh tế phát triển, cuộc sống nhân dân ngày một giàu lên theo năm tháng của công cuộc đổi mới và bên cạnh đó đời sống văn hóa - giáo dục cũng ngày một nâng cao là do có sự lãnh đạo sáng suốt của các cấp ủy Đảng cũng như chính quyền địa phương; nhưng không thể thiếu những cá nhân suất sắc, dám nghĩ dám làm đã góp phần bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc anh em trên vùng đất Tây Nguyên. Hai mươi năm chưa phải là dài, nhưng cũng đủ để khẳng định một hướng đi đúng, một cách làm sáng tạo của một tập thể đoàn kết, biết dựa vào dân và phát huy bản chất tốt đẹp của người Việt Nam. Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk là một điểm sáng trong thời kỳ đổi mới để nhiều địa phương trong cả nước học tập.



(Chuyện của Núi hoa).

@Nếu như ai đã từng đọc các tác phẩm trước đây của nhà văn Hồng Chiến , và lần này đọc Tiếng kêu chim én, người ta dễ nhận  đặc điểm của một phong cách có thế nói đã ổn định, mà vào ở độ tuổi của tác giả bây giờ, khó có thể thay đổi được. Phong cách ấy thể hiện ở nhiều phương diện. Đó là một thứ văn đậm đặc những sự kiện của hơi thở cuộc sống. Đó là những tình huống thường xuyên tạo ra những cao trào, những xung đột, giàu tính tự sự, làm cho người đọc cảm thấy bớt đơn điệu, tò mò hơn, hứng thú  hơn khi theo dõi những câu chuyện ký rất nhiều tình tiết.
...

Vào một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi rời Buôn Ma Thuột, xuôi theo quốc lộ 26A về phía thành phố Nha Trang - tỉnh Khánh Hòa; không khí mát mẻ vì đêm qua trời đổ cơn mưa khá lớn. Mùa này Đắk Lắk có mưa như trời cho nhà nông thêm vàng, cà phê không phải tưới, ruộng rẫy thoát khỏi khô hạn. Tới km 61 thuộc địa phận huyện Ea Kar, xe rẽ trái vào con đường đất rất khó đi, đầy “ổ voi ổ trâu” và một thứ mùi khó chịu ập vào xe. Nhà thơ Lê Vĩnh Tài ngồi bên tôi vội nói: “Đóng cửa xe lại để bật máy lạnh”. Nghệ sỹ nhiếp ảnh - nhà thơ Đặng Bá Tiến cười buồn: “Chúng ta đến địa phận Nhà máy tinh bột mỳ Ea Kar rồi đấy. Ngày cắt băng khánh thành rất đông quan khách về dự, sau buổi lễ ông Giám đốc Nghiêm Minh Tiến mời tất cả ở lại nhà máy dùng bữa cơm thân mật, nhưng nhiều người vội vã ra xe về ngay vì cái mùi đặc trưng này. Mọi người ồ lên ngạc nhiên.

Vượt cầu Krông Năng, nhà máy tinh bột mỳ xây khá bề thế hiện ra qua khung cửa kính. Nhờ có nhà máy này mà nhiều hộ nông dân của các huyện Ea Kar, M’Đrăk, Krông Năng thoát khỏi đói nghèo; nhưng những người dân xung quanh khu vực nhà máy đang phải gánh chịu sự ô nhiễm môi trường khá nặng; không biết đến bao giờ mới cải thiện được. Qua nhà máy tinh bột mỳ, nhà thơ Hoàng Thiên Nga thông báo: “Chúng ta sắp vào Khu Bảo tồn thiên nhiên Ea Sô”. Mọi người ồn ào cả lên vì địa danh nổi tiếng qua vụ án săn động vật quý hiếm của ông Đại Hùng bị Hạt kiểm lâm khu bảo tồn Ea Sô bắt năm 2003. Vụ săn bắn hai con Min trong khu bảo tồn làm tốn không ít giấy mực của cánh báo chí. Vụ án kết thúc, kẻ phạm pháp dù đương chức là giám đốc một sở của thành phố lớn hay là đại gia cũng phải cùng nhau ra trước vành móng ngựa. Luật pháp được thực thi.
 Còn tôi vốn là dân gần như “bản địa” ở đây (vì có hơn 20 năm sống và công tác tại huyện Ea Kar), trong những năm từ 1987 đến 1992 khi chờ tòa án tối cao xét xử trả lại công bằng; vì mưu sinh, tôi đã lội khắp các cánh rừng của huyện Ea Kar. Trong một lần vào đồi Cô Đơn, tôi gặp một con vật: đầu trâu, chân bò, to như con voi; anh bạn cùng đi là sỹ quan ban tuyên huấn Sư 333 bảo: “Bò xám” đấy! Tôi về viết một mẩu tin gửi báo Tiền Phong, không ngờ một mẩu tin ngắn hơn 100 từ đã làm chấn động giới khoa học trong nước, mấy hôm sau Viện trưởng Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh và Phó Giáo sư - Phó Tiến sĩ Lê Vũ Khôi, lặn lội từ Hà Nội vào tận nhà hỏi thăm và nhờ dẫn đường vào rừng Ea Sô tìm bò xám. Sau một tuần lang thang trong rừng, vị giáo sư khả kính tóc bạc trắng, tuổi gần bảy mươi nói với tôi: Căn cứ vào các dấu chân đo được trong rừng, nhiều khả năng đây là dấu chân bò xám vì nó to hơn và tròn hơn so với dấu chân min. Sau đó giáo sư cóù bản báo cáo khá chi tiết gửi cho Ủy ban nhân dân huyện Ea Kar và Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đánh giá của mình về khu rừng này. Qua trò chuyện với giáo sư - tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh, tôi mới biết vài nét về con vật mang tên bò xám: bò xám hay còn gọi bò kyprei (tên khoa học Bos sauveli) là con vật đầu trâu, mình bò, thân hình to lớn, con trưởng thành có thể nặng từ 2,5 đến 3 tấn; được một nhà khoa học Pháp phát hiện và chụp ảnh lần cuối cùng vào năm 1930 trên đất Căm-pu-chia và từ đó đến nay không ai còn nhìn thấy nó nữa; giới khoa học nghi đã bị tuyệt chủng. Còn con min, có nơi gọi bò tót (tên khoa học Bos gaurus) đầu có đốm trắng, bốn cẳng chân trắng, bộ lông màu hung hung đỏ, trọng lượng nhỏ hơn khoảng 1 đến 1,5 tấn, có tên trong sách đỏ Việt Nam thuộc nhóm A, đây là loại động vật quý hiếm. Khoảng hai tháng sau khi Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Huy Huỳnh về Hà Nội, một đoàn 7 nhà khoa học các nước: Vương quốc Anh, Vương quốc Căm-pu-chia và Việt Nam đã vào rừng Ea Sô điều tra; sau một tháng làm việc, đoàn kết luận không có bò xám nhưng đây là khu rừng đa hệ sinh thái cần được bảo vệ nên đề nghị và được cấp trên chấp nhận. Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô đã ra đời như vậy.
Xe chúng tôi vượt cầu sông Hai, chạy qua khu nhà làm việc của Ban quản lý khu bảo tồn được xây dựng khá khang trang. Con đường tỉnh lộ nối hai tỉnh Phú Yên - Đắk Lắk chạy qua Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, phần đường từ sau cầu sông Hai xuôi thành phố Tuy Hòa làm khá tốt. Phía bắc đường được trồng khá nhiều cây keo tai tượng cao quá đầu người, phía nam ngay sát đường là những đám rẫy gieo mè xanh mơn mởn. Nhà thơ Đinh Thị Như Thúy ngạc nhiên hỏi: “Sao Khu bảo tồn thiên nhiên lại gieo mè nhiều thế?”. Câu hỏi của Thúy làm mọi người lặng đi vì thực tế đang được thấy và không biết phải trả lời như thế nào. Cuối địa phận tỉnh Đắk Lắk, công trình thủy điện Krông H’Năng có vị trí gần đường đang hối hả thi công, con đập chính ngăn nước sắp hoàn thành, xe tấp nập nối đuôi nhau xuôi ngược. Bức tranh công nghiệp khai thác “vàng trắng” đang thực thi ở đây đã sắp hoàn chỉnh, nhưng một phần Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô sẽ bị ngập nước, một diện tích không nhỏ đất đai sẽ chìm dưới lòng hồ; đây cũng chính là nỗi băn khoăn của nhiều văn nghệ sĩ Đắk Lắk khi cho rằng: chúng ta ồ ạt xây dựng các nhà máy thủy điện, liệu có tính đến một diện tích đất đai rất lớn chìm dưới lòng hồ, hiệu quả kinh tế về lâu dài như vậy có khả quan không?
Gần 12 giờ trưa chúng tôi đến thành phố Tuy Hòa, nhà văn Huỳnh Thạch Thảo - Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên, Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Phú Yên đón chúng tôi đưa về khách sạn Công đoàn. Tôi không ngờ nhà văn trẻ này lại có nét phong trần đến thế, tuổi còn kém tôi xa, nhưng tóc đã bạc quá nửa. Anh khác hình ảnh mà tôi đã hình dung qua những lần trao đổi điện thoại. Sau bữa cơm thân mật do Hội chiêu đãi, chúng tôi kéo nhau về văn phòng Hội. Đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk nhiều người ngạc nhiên như không thể tin ngôi nhà ba tầng đồ sộ được xây ngay sát biển là trụ sở của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh. Căn nhà đẹp quá, vị trí cũng thật lí tưởng: một bên là quảng trường, một bên là biển, gió lồng lộng thổi… Văn phòng Hội tọa lạc trên tầng hai khá rộng, đoàn Đắk Lắk 11 người ngồi chưa hết nửa chiếc bàn hình ô van, phần còn lại là các văn nghệ sĩ tỉnh bạn. Nhà văn Đào Minh Hiệp - Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật Phú Yên giới thiệu sơ qua vài nét về tỉnh: “Dân số hơn 800 ngàn người, hội viên của Hội hơn 200, cơ sở như các bạn đã thấy, trên tầng ba có 4 phòng khách vì đang sửa lại hệ thống nước nên không thể bố trí cho đoàn ở lại được…”. Nghe Chủ tịch Hội nói trụ sở hội có hẳn 4 phòng khách trang bị đầy đủ tiện nghi, làm đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk càng thêm sửng sốt. Vâng! Thật sự sửng sốt! Một tỉnh mới thành lập, dân số chỉ sem sém một nửa dân số tỉnh Đắk Lắk thế mà có một cơ ngơi làm việc như trong mơ. Trông người lại ngẫm đến ta…! Nhà văn Huỳnh Thạch Thảo cho biết thêm về Tạp chí Văn nghệ của Hội: tháng rưỡi ra một số, mỗi số in 600 bản, trong đó một nửa được phát hành theo yêu cầu của bạn đọc; kinh phí dành riêng cho tạp chí hơn 200 triệu, tạp chí có tài khoản riêng, con dấu riêng… Vốn là “dân” cùng làm tạp chí văn nghệ như nhau, các anh có cái hơn đồng nghiệp Đắk Lắk là Tạp chí được tự chủ về kinh phí hoạt động, biên chế nhân sự nhiều hơn, tuy số lượng phát hành cũng sàn sàn như nhau (Phú Yên 3 tháng hai số, còn Đắk Lắk mỗi tháng một số với 500 bản). Thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Phú Yên - Huỳnh Văn Quốc cũng có những trao đổi hết sức chân tình về hoạt động của tạp chí nói chung và công tác cộng tác viên nói riêng. Hai tạp chí của hai Hội Đắk Lắk và Phú Yên, đều có chung một điểm giống nhau: cộng tác viên các tỉnh bạn rất nhiều. Cuộc gặp mặt - giao lưu giữa đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk và Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên đã đến lúc phải chia tay. Tôi nhận lời chuyển đề nghị của các anh về lãnh đạo hội Văn học nghệ thuật Đắk Lắk sẽ kết hợp cùng tổ chức một trại sáng tác chung giữa hai tỉnh trong thời gian gần nhất.
Chiều, nhà văn Huỳnh Thạch Thảo dẫn đoàn lên thăm Tháp Nhạn - một di tích độc đáo của người Chăm ở tỉnh Phú Yên. Tháp Nhạn tọa lạc ngay trên đỉnh núi Nhạn, cao khoảng trên chục mét, có cấu trúc gần với Tháp Bà - Nha Trang. Sân tháp được lát gạch vuông đỏ au khá rộng, là nơi hàng năm được Hội Văn học nghệ thuật tỉnh tổ chức Ngày Thơ Việt Nam. Xung quanh gò, cây cối xanh tốt, nhiều cây có đường kính khá lớn, xen kẽ là những chùm hoa lạ làm cho người đến thăm thấy thêm phần linh thiêng. Đứng ở chân tháp nhìn về phương bắc có thể thấy toàn bộ thành phố Tuy Hòa với những tòa nhà cao tầng rất đẹp vây quanh cánh đồng lúa xanh mượt mà; quay về phía đông nam là một cây cầu dài đang thi công chạy sát mép biển, nối hai bờ sông. Thành phố giống như một bức tranh đẹp nhưng chưa hoàn thiện. Muốn vào trong tháp để thắp hương, mọi người phải lách mình qua một người phụ nữ đứng tuổi với một quầy hàng nho nhỏ bán bánh trái và một con chó nhỡ án ngay cửa tháp. Một danh thắng gần trung tâm thành phố, rất đông du khách đến tham quan, trong đó có cả người nước ngoài, vậy mà… tôi thấy man mác buồn. Không biết các cơ quan quản lý khu di tích nghĩ gì khi để hình ảnh này cứ tiếp tục tái diễn trước du khách đến đây.
Sáng ngày 29 chúng tôi đến ghềnh Đá Đĩa thuộc địa phận tỉnh Phú Yên, đây là di tích đã được xếp hạng. Từ đất liền nhô ra biển một mỏm đá không lớn lắm, chu vi khoảng sáu bảy chục mét nhưng được sắp xếp hoàn toàn bằng những khối đá ngũ giác có các cạnh khá đều nhau, mỗi cạnh dài hơn 30 cm; đứng xa nhìn ta có cảm giác nó như một tổ ong vàng khổng lồ. Tôi chợt nhớ đến thác Dray Sap cũng có những cột đá hình dáng kích cỡ giống y hệt thế này. Thiên nhiên thật kỳ diệu, từ  ghềnh Đá Đĩa thuộc tỉnh Phú Yên cách xa thác Dray Sap tỉnh Đắk Lắk hàng mấy trăm cây số sao lại có những cột đá đĩa giống nhau đến vậy! Biển xanh biếc, từng cơn sóng ồ ạt thi nhau chạy vào tung những ngọn nước cao ngất trườn lên mặt ghềnh như muốn đánh bóng cho các tảng đá đĩa. Văn nghệ siõ Đắk Lắk thi nhau bấm máy, đâu đó xen lẫn tiếng xuýt xoa: Đẹp, đẹp quá! Nhưng phải nói, thật tiếc cho một danh thắng còn thiếu cơ sở vật chất phục vụ khách tham quan du lịch, thiếu sự đầu tư  cho cơ sở hạ tầng; bên cạnh tấm bia được đắp bằng xi măng ghi rõ ngày tháng ghềnh Đá Đĩa được công nhận di sản quốc gia, chỉ có một căn lều chiều ngang độ 3m, dài 6m, trên lợp lá, xung quanh thưng… gió, không một bóng người. Mải mê chụp hình, ghi chép, mặt trời lên đỉnh đầu anh em mới vội vã quay về. Khi đi đến gần thành phố Tuy Hòa, nhà thơ Lê Vĩnh Tài thông báo: “Mấy anh ở Hội đang đợi chúng ta về ăn bữa cơm liên hoan chia tay”. Xe đến điểm hẹn, nhà văn Huỳnh Thạch Thảo và nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Quỳ ra tận xe đón đoàn. Bữa cơm trưa thân mật thắm tình bè bạn, nồng ấm tình cảm gia đình, làm ai cũng say, cái say của tình bạn văn nghệ sĩ.
 Chiều tối đoàn đến thị xã Cam Ranh, các bạn cộng tác viên của tạp chí được thông báo trước, đến khá đông, có người ở xa trên chục ki-lô-mét như Thùy Liên phải nhờ chồng giữ con, đội mưa đến gặp; hay cô gái làm thơ vàø thích đùa - Lam Hạnh tuổi đời còn rất trẻ; có người tuổi chưa nhiều như tác giả thơ Trần Quang Phong mang dáng dấp của người trung niên, chưa uống đã… say! Quây quần đọc thơ, kể chuyện đến tận khuya không dứt ra được. Được các cây bút trẻ Cam Ranh nhắc nhiều nhất là nhà thơ Lê Vĩnh Tài và nhà thơ Đinh Thị Như Thúy, những người rất quen trên văn đàn nhưng chưa được gặp mặt. Hồng Minh rất vô tư nhận xét: “Anh Tài khác xa so với em tưởng tượng khi chưa gặp”. Nhà thơ Tôn Nữ Ngọc Hoa của đoàn Đắk Lắk hỏi lại: “Có phải em thất vọng vì Tài không có râu?”. Mọi người cười ồ lên trước sự vô tư của các bạn trẻ Cam Ranh. Có lẽ say với không khí văn chương mà đoàn Đắk Lắk ai cũng đọc thơ, toàn những bài tủ của mình. Nhạc sĩ Sỹ Hùng tuy tuổi đã cao nhưng có lẽ say với không khí nên không những đọc thơ, hát mà còn trổ tài kể chuyện thi với các bạn Cam Ranh, làm cho đêm giao lưu như thêm ấm cúng hơn, mặc dù về khuya trời đổ mưa mỗi lúc một nặng hạt. Riêng tôi cũng phải trả lời những thắc mắc: “Tại sao bọn em gửi bài nhiều mà lâu không thấy được đăng?”
Sáng hôm sau rời thị xã Cam Ranh tiếp tục hành trình về thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Thành phố vào những ngày nghỉ lễ nên “cháy phòng”; mọi cố gắng nhờ bạn bè liên hệ khách sạn đều không thành công. Trong lúc khó khăn chưa biết làm thế nào thì nhà thơ Lê Công Hương thông báo: “Bạn mình công tác ở Ban Tuyên giáo tỉnh ủy đã liên hệ được hai phòng ngủ tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh”. Thật mừng song cũng hơi ngại khi phải vào ở ngay trong cơ quan quân sự. Nhưng sự tiếp đón chân tình của cán bộ chiến sĩ nơi đây đã làm yên lòng anh chị em văn nghệ. Tuy hơi chật nhưng tiện nghi không kém bất kì một khách sạn nào, làm ai cũng vui và nhất trí ở lại thêm một đêm nữa trước khi lên Đà Lạt. Hai ngày ở Phan Rang rồi vào thành phố Phan Thiết, lại quay ra Phan Rang, trời vẫn đổ mưa tầm tã, nhiều nhà dân hai bên quốc lộ 1A bị chìm trong nước, những người nông dân trồng nho, thanh long be bờ tát nước trong gió mưa làm mủi lòng các văn nghệ sĩ, ai cũng xuýt xoa. Nhà văn Đỗ Trọng Phụng nhận xét: “Người nông dân ở vùng nào cũng cực vì sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên. Các ông thấy đấy, mưa gió thế này làm sao có thể giữ nổi không bị úng ngập”. Trời vẫn mưa, tác giả thơ Lê Hưng Tiến - Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Ninh Thuận đội mưa chạy xe máy đến tình nguyện dẫn đoàn đi tham quan. Trên con đường về thăm thôn Đá Trắng gần thành phố Phan Rang, đường rải nhựa chỉ rộng khoảng 5m thôi nhưng người dân chiếm mất gần một nửa phơi lúa. Trời dần dần tối, xa xa trên các thửa ruộng đã gặt lác đác vài con cò trắng lẻ loi đứng nghếch mỏ nhìn trời (cũng lạ, tại sao cò trắng nơi đây không đi theo đàn như ở Đắk Lắk); trên đường những người dân tộc Chăm lầm lũi bước theo những chiếc xe bò chất đầy lúa đi xiên xiên qua những hạt mưa bay làm lòng tôi thấy nao nao. Lúa đã nhiều, nhà xây môđen cũng lắm, nhưng người nông dân vẫn còn lam lũ quá.
Trưa mùng 2 tháng 5 chúng tôi đặt chân tới thành phố Đà Lạt, trời vẫn lất phất mưa. Đón chúng tôi tại trụ sở Báo Sài Gòn thường trú, nhà thơ Nguyễn Thanh Đạm - Tổng biên tập Báo Lâm Đồng thông báo: “Các bạn thông cảm, hiện nay không còn phòng nên ở tạm đây vậy”. “Có được phòng nghỉ trong những ngày này là tốt quá rồi” - nhà thơ Hoàng Thiên Nga đỡ lời. Đà Lạt khí hậu khác hẳn Ban Mê cũng như các tỉnh mà đoàn Đắk Lắk vừa đi qua. Lạnh. Sắp đến mùa hè nhưng ai cũng run vì lạnh, đành ghé chợ Đà Lạt mua áo ấm. Mỗi người tranh thủ chọn cho mình một bộ tránh rét và để răng khỏi va vào nhau, ai cũng tấm tắc: Đúng là Đà Lạt! 14 giờ, chúng tôi lên xe đến trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng. Thành phố du lịch vừa làm lễ đón nhận đô thị loại một nên không khí còn tưng bừng lắm; đường phố đầy hoa và kín người đi lại, mặc cho trời vẫn lắc rắc mưa. Trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng là một tòa biệt thự cũ xây từ thời Pháp, tuy không bề thế như trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên nhưng lại có vẻ đẹp riêng của nó, rất Đà Lạt. Thật bất ngờ khi các anh ở Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng đã có mặt đông đủ đợi đoàn. Nhà thơ Trần Ngọc Trác - Chủ tịch Hội, khỏe khoắn và hơi mập một chút so với trước đây; nhà thơ  Phạm Quốc Ca - Phó Chủ tịch, tóc bạc thêm mấy phần, chắc công việc quản lý ở Trường đại học Đà Lạt đã vất vả nay phải gánh thêm trọng trách của Hội nữa, người sút đi cũng phải; nhà văn Lê Công - Phó Chủ tịch, Tổng biên tập tạp chí LangBiAn có vẻ sút đi nhiều, da sạm đen; và còn các nhà văn, nhà thơ của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng như: nhà thơ Phạm Vũ, nhà thơ Minh Hạnh, vợ chồng nhà thơ Nguyễn Vĩnh… lần lượt bắt tay đoàn và cười. Không khí ấm cúng như trong một gia đình. Sau phần nghi thức, hai đoàn có cuộc giao lưu, mọi người thay nhau trình bày những tác phẩm mới nhất của mình. Trong niềm vui chung, có lẽ người vui nhất là nhà thơ Hoàng Thiên Nga và nhà thơ Đinh Thị Như Thúy; hai cô sinh viên trường đại học Đà Lạt năm nào nay trưởng thành, trở lại chốn xưa gặp lại bạn tâm giao và thầy giáo cũ: nhà thơ - Tiến sĩ Phạm Quốc Ca. Nhìn cảnh thầy trò cùng xúc động, cùng đọc thơ, cùng nâng ly, lòng như ấm lại giữa cái rét của Đà Lạt. Trời tối lúc nào không biết, phải đến lúc chia tay nhau, các anh chị của Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng cùng hẹn ngày gặp lại tại Ban Mê. Buổi giao lưu để lại ấn tượng tốt đẹp cho mỗi người và cứ mong sẽ có dịp tái ngộ.
Ngày mùng 4 tháng 5, đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk rời thành phố Đà Lạt đầy hoa và lòng mến khách để trở về Buôn Ma Thuột. Trời vẫn se lạnh, nhưng không còn mưa nữa! Thành phố hoa lùi lại phía sau, những cánh rừng thông cũng lùi lại phía sau và những rừng cà phê tươi tốt lại hiện ra trước mắt mọi người. Không đâu có những cánh rừng cà phê mượt mà xanh tốt như Đắk Lắk. Thế là đã trở về nhà sau chuyến đi sáu ngày vòng qua năm tỉnh, chắc chắn các anh chị em trong đoàn sẽ thu hái được nhiều vốn sống để có những tác phẩm văn học không những cho hôm nay mà còn cho cả mai sau. Những tư liệu có được sau chuyến đi chắc chắn sẽ bổ sung cho nguồn vốn thực tiển hết sức quý giá của các văn nghệ sĩ. Cảm ơn Hội Văn học nghệ thuật Đắk Lắk đã tạo điều kiện cho chúng tôi có một chuyến đi bổ ích. Cảm ơn các hội Văn học nghệ thuật tỉnh bạn: Phú Yên - Lâm Đồng và những bạn văn chương, những cộng tác viên của tạp chí ChưYangSin ở các tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận… đã tận tình giúp đỡ đoàn có một chuyến đi thành công.

                  Tháng 6 năm 2009



(Nhật ký một chuyến đi).

@Để có được những trang văn dày dặn trong Tiếng kêu chim én, nhà văn Hồng Chiến đẫ ấp ủ lâu năm, đã đi thực tế dài ngày từ nam ra bắc, đã gặp gỡ rất nhiều người, nhiều cảnh vật, huy động vốn sống và cả vốn hiểu biết ở rất nhiều lĩnh vực, đã lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi.


Nhắc đến Đắk Lắk người ta nghĩ ngay đến vùng đất được mệnh danh là xứ sở cà phê Việt Nam. Quả đúng như vậy, nếu có dịp bạn theo quốc lộ 14A từ Gia Lai qua, hay quốc lộ 26A dưới Khánh Hòa lên, hoặc quốc lộ 27A bên Đà Lạt về, đến địa phận Đắk Lắk bạn sẽ thấy những cánh rừng cà phê bạt ngàn, trải dài như vô tận. Cây cà phê sinh trưởng trên mảnh đất ba zan trù phú này phần đa thuộc nhóm cà phê có tên khoa học là Rubusta, người dân ở đây gọi nôm na là cà phê vối (vì lá giống với lá cây vối người Việt thường lấy lá nấu nước uống), khác xa so với cà phê các nơi bởi sự đồng đều về chiều cao và tán. Thường thường cây cà phê vối khi đưa vào kinh doanh cao 1,2 m tán rộng xấp xỉ 1,4 m; nếu cây nào trên 10 tuổi có thể cao tới 1,5m, tán rộng hơn 2m một tý. Mùa hoa cà phê nở tất cả các kẽ lá đều bung ra những chùm hoa trắng tinh khôi, toả hương thơm ngát. Mùa hoa cà phê nở cũng là mùa con ong đi lấy mật và mùa bướm bướm về. Không biết loài bướm ở đâu ra mà nhiều đến thế, chúng bay kín trời, màu sắc rực rỡ, bay qua các lô cà phê hàng tháng trời không hết. Nếu ai có dịp tới Đắk Lắk được chiêm ngưỡng một lần vũ điệu của các loài bướm và hít thở hương thơm của hoa cà phê sẽ trọn đời không quên. Còn người dân sinh ra và lớn lên ở Đắk Lắk dù vì cuộc sống mưu sinh phải đi xa, nhưng đến mùa hoa cà phê nở cũng háo hức tìm về dù chỉ một ngày để thả hồn mình với hoa, với bướm rồi đi cho đỡ nhớ.

Nhưng Đắk Lắk không chỉ có cây cà phê làm say đắm lòng người, mà thiên nhiên còn ban phát cho nơi đây một dòng sông khác lạ, dòng sông chảy ngược. Thông thường ở đất nước Việt Nam chúng ta “trăm sông đổ một biển Đông”, mọi con sông đều từ phía tây chảy xuôi ra biển Đông; riêng ở Đắk Lắk có con sông lại bắt nguồn từ phía đông chảy ngược qua phía tây và đổ về sông Mê Kông thuộc địa phận Vương quốc Căm-pu-chia, đó là sông SrêPôk. Sông SrêPôk có hai nhánh chính, một nhánh được đặt tên là Krông Ana (theo tiếng Êđê là sông Cái hay còn gọi sông Vợ) bắt nguồn từ dãy ChưYangSin thuộc dải Trường Sơn chảy qua các huyện Krông Pak, Krông Bông và Krông Ana trước khi hợp dòng với sông Krông Knô tạo thành sông SrêPôk. Nhánh thứ hai bắt nguồn từ tỉnh Lâm Đồng chảy qua địa phận hai tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk trước khi hòa với dòng sông Krông Ana được đặt tên: sông Krông Knô (theo tiếng Êđê là sông Đực hay còn gọi là sông Chồng). Nếu sông Krông Ana hiền hòa, tạo ra những cánh đồng lúa nước rộng lớn, phì nhiêu nơi nó chảy qua thì ngược lại, dòng sông Krông Knô tương đối hung dữ; nó len lỏi qua các dãy núi cao, tạo nên lắm thác ghềnh trước khi ùa vào dòng Krông Ana hình thành sông SrêPôk. Có lẽ vì “vợ chồng sông” lâu ngày bị chia cắt nên khi chúng gặp nhau đã quấn quýt lấy nhau, gầm thét lao về phía tây tạo nên nhiều thác nổi tiếng như: Thác Đray Sap, Đray Nur, Trinh Nữ, Đray H’Linh… thác nào cũng đẹp, thơ mộng và hùng vĩ. Trước đây, khi vùng đất quanh thành phố Buôn Ma Thuột còn hoang vu, rừng còn nhiều thú dữ, nhưng ông vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn - Bảo Đại đã bắt quân dân phục dịch băng rừng lội suối đến thác Đray Sap thưởng thức. Trước cảnh đẹp của thác, ông vua nổi tiếng ăn chơi một thời trầm trồ thán phục và lấy ngay tên ông tổ của mình đặt tên cho thác, từ đó dòng thác được mang tên: thác Gia Long. Nhắc lại điều ấy để bạn đọc có thể hình dung ra dòng thác hùng vĩ như thế nào!
Sau ngày thống nhất đất nước, ngành du lịch Đắk Lắk tổ chức nhiều tua du lịch đến các dòng thác trên dòng SrêPôk và thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi bước qua thế kỉ XXI, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, nền “công nghiệp không khói” ở Đắk Lắk có bước phát triển vượt bậc và cũng được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối tốt, thu hút ngày càng đông du khách đến thăm, góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách cũng như tạo cho nhiều người dân nơi đây có thêm việc làm. Vì thế khi đến Đắk Lắk du khách không chỉ được thưởng thức ly cà phê thơm ngát chính hiệu mà còn được đi thăm những dòng thác xinh đẹp, đến rồi không muốn về.
Trong những tháng đầu năm 2009, một số báo đưa tin: Các dòng thác trên sông SrêPôk bị khai tử! Nghe nói giật mình, tôi quyết tâm đi một chuyến xem sao. Theo như Sở Công thương Đắk Lắk cho biết: trên sông SrêPôk ngoài nhà máy thủy điện Đray H’Linh được xây dựng từ thập niên 80 của thế kỷ trước vẫn vận hành tốt, hiện nay có 3 nhà máy thủy điện đang thi công và sắp hoàn thành là: nhà máy thủy điện Buôn Tua Srah, nhà máy thủy điện Buôn Kup, nhà máy thủy điện Srêpôk 3, ngoài ra còn có 2 nhà máy đã được duyệt dự án, sẽ thi công vào thời gian sắp tới là: Nhà máy Thủy điện Srêpôk 4 và Nhà máy Thủy điện Srêpôk 5. Dòng sông chảy ngược quả là giàu tiềm năng để khai thác “than trắng”, biến nó thành điện phục vụ sự nghiệp “hiện đại hóa đất nước”. Nhưng những nhà máy thủy điện mọc lên nhiều như vậy có ảnh hưởng gì đến các dòng thác nói riêng và cuộc sống của người dân trên địa bàn Đắk Lắk nói chung? Cũng có người cho rằng xây dựng các nhà máy thủy điện còn cần phải tính đến diện tích mặt hồ vì đất đai có ít, xây dựng các hồ chứa nước lớn sẽ chiếm mất nhiều diện tích đất thì không có lợi về kinh tế lâu dài. Tôi mang thắc mắc này trao đổi với ông Trần Ngọc Ánh - Trưởng phòng tổ chức kiêm Chánh văn phòng Ban quản lý thủy điện 5. Ông cho biết: “Trong thập niên 60 của thế kỉ trước, nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Hỏi đâu thác nhảy - cho điện xoay chiều”; để xây dựng các nhà máy thủy điện, người ta chủ yếu dựa vào các dòng sông có thác, các nhà máy thủy điện được xây dựng trên sông SrêPôk cũng theo một quy luật ấy cả. Theo như tính toán, các dòng thác vẫn bình thường sau khi các nhà máy đi vào hoạt động vì các công ty cam kết để tối thiểu lượng nước chảy qua thác là 8 đến 10 m3/giây. Hiện nay đập chứa nước của thủy điện Buôn Kup đã hoàn thành đang tích nước để chuẩn bị chạy thử, nước trên các thác Gia Long, Dray Nur, Đray Sáp… vẫn chảy bình thường”. Tôi phân vân bán tín bán nghi nên quyết tâm đến thăm các công trình thủy điện trên dòng SrêPôk xem sao.
Trước đây nói đến căn cứ cách mạng Nam Ka, người ta thường nghĩ ngay đến vùng đất khô cằn, đường sá cách trở, khó khăn, bốn bề là núi cao bao bọc, việc đi lại thông thương với bên ngoài chỉ có một cách duy nhất là đi bộ trèo đèo lội suối hoặc dùng voi để vận chuyển. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược, địa danh Nam Ka là nỗi kinh hoàng của bọn cướp nước và bán nước đồng thời là niềm tự hào của quân và dân ta. Sau ngày thống nhất đất nước, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, ta chưa làm đường lớn vào đây được. Phải đến tận khi có Dự án Nhà máy Thủy điện Nam Ka, con đường rải nhựa, vượt qua núi cao, vực sâu để đến với vùng đất oai hùng một thuở, ô tô xe máy chạy đến tận khu vực hành chính của xã. Ông Trương Quang Hồng, Trưởng ban quản lý Dự án Nhà máy Thủy điện Buôn Tua Sah cho biết: Nhà máy Thủy điện Buôn Tua Sar là công trình thủy điện đầu nguồn sông SrêPôk; theo thiết kế, hồ chứa nước của công trình thủy điện này có dung lượng 800 triệu m3, vốn đầu tư 2.500 tỷ, công suất nhà máy 86 mêgaW. Nếu so với các nhà nhà máy đã và đang thi công trên cùng dòng sông này thì công suất không phải lớn, nhưng có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà máy thủy điện khác cũng như việc phòng chống lũ lụt, vì nó có nhiệm vụ điều tiết nước cho sông SrêPôk và các nhà máy thủy điện phía dưới. Công trình chính thức khởi công ngày 25 tháng 11 năm 2004 và dự kiến hoàn thành trong năm 2010. Tôi lên thăm công trình được tận mắt chứng kiến cảnh thi công giai đoạn cuối, người xe hối hả làm việc dưới cái nóng oi bức mùa khô. Tình cờ tôi gặp một đoàn người dân tộc Ê Đê đi làm về đang rửa chân phía dưới chân đập, bà amí H’Jut vui vẻ cho tôi biết: “Mình ưng lắm cái con đập này, nó làm cho sông bớt giận giữ, không lên cướp phá bắp lúa như trước đây nữa. Con đường nhựa từ thị trấn vào đây rộng lắm, đi được nhiều xe nên hàng hóa mang vào được nhiều, lại rẻ như ngoài phố, thích lắm”. Trả lời câu hỏi của tôi: “Công trình này có lấy mất nhiều ruộng rẫy không?”. “Ồ, không nhiều đâu, đây là vùng toàn đá thôi, chúng xếp lại thành ghềnh đẹp lắm; nay nó chìm dưới nước cả rồi. Cả vùng chỉ có 4 hộ được tiền trả công làm rẫy; họ nhận tiền đền bù mua nhiều thứ đẹp lắm, vui lắm”. Nhìn những khuôn mặt rạng ngời hạng phúc khi nói về công trình thủy điện đang xây như nói về chính công trình của mình; điều đó chứng tỏ công trình đã được sự đồng thuận của người dân trong vùng. Công trình khởi công, đường sá được làm mới, điện lưới kéo đến tận từng gia đình, trên đầu hồi nhiều nhà đã mắc chảo DTH, bắt sóng truyền hình từ vệ tinh. Nam Ka hôm nay đã có bước chuyển mình về mọi mặt, ngoài đường, điện ra, trường học cũng được đầu tư xây dựng khang trang. Mảnh đất heo hút khi xưa, nay đã trở thành một địa danh du lịch hấp dẫn để du khách đến thăm nhà máy thủy điện và ngắm nhìn đỉnh núi Nam Ka cao 1300 mét so với mặt nước biển, đứng soi bóng xuống mặt hồ; thăm căn cứ cách mạng Nam Ka oai hùng một thuở...
Rời thủy điện Buôn Tua Sar, tôi đến thăm công trình thủy điện Buôn Kup. Đây là công trình thủy điện lớn nhất được xây dựng trên sông SrêPôk, có vốn đầu tư 5.000 tỷ đồng, công suất nhà máy 280 mêgaW, đường hầm dẫn nước vào nhà máy dài 4,7km (dài nhất Việt Nam và Đông nam Á). Tôi quan tâm đến công trình này vì hồ chứa nước án ngữ ngay sát các dòng thác nổi tiếng như: Dray Sáp 1, Dray Nur, Trinh Nữ… liệu hồ đang đóng cửa tích nước thì các dòng thác sẽ ra sao? Đứng trên con đập chính của nhà máy thủy điện Buôn Kup ngắm nhìn mặt hồ rộng mênh mông, mang nặng phù sa; xa xa về hướng đông bắc, cà phê xanh tốt mỡ màng trải dài xa tít tắp. Tôi hỏi ông Nguyễn Đức Khẩn thôn Quỳnh Ngọc, xã Ea Na, huyện Krông Ana về đánh giá của người dân khi công trình thủy điện xây dựng trên quê hương họ. Ông vui vẻ cho biết: “Có cái hồ nước lớn thế này thì tốt quá chứ. Anh xem, cà phê bao quanh bờ hồ rất cần nước tưới, nay thì không lo bị thiếu nước, độ ẩm tăng nên năng suất chắc chắn sẽ cao; khí hậu cũng tốt hơn cho sức khỏe con người, ấy là chưa kể sau vài tháng nữa việc kinh doanh, khai thác nguồn lợi thủy sản trên mặt hồ sẽ tạo việc làm cho nhiều hộ nông dân có thêm thu nhập. Nếu các bên liên quan đầu tư thoả đáng thì đây còn là điểm du lịch sinh thái lý tưởng, chắc chắn sẽ thu hút được nhiều du khách đến thăm”.
Con đập ngăn nước cơ bản đã hoàn thành, chỉ còn một ít công nhân đang rải đá chuẩn bị rải nhựa và trồng cột đèn điện. Nhìn về phía hạ lưu, dù các cánh cửa đóng kín để tích nước, nhưng trên dòng chính, nước sông vẫn chảy khá mạnh. Tôi hỏi ông Trần Ngọc Ánh: “Các cửa đập đều đóng kín, tại sao nước trên sông SrêPôk vẫn chảy nhiều như vậy?”. “Anh nhìn phía chân con đập, nước thấm qua đập đấy. Khi thiết kế, người ta không lường trước được hết các vết nứt của đá nên khi hồ bắt đầu tích nước mới phát hiện ra đập bị thấm nước, bên thi công đã thuê các chuyên gia đầu ngành về khoan, bắn bê tông hiện đại nhất nhưng vẫn không thể khắc phục được, đành phải chấp nhận”. Công trình lớn như thế này mà đập chính bị thấm, lượng nước chảy ra sông đạt vận tốc từ 10 đến 12m/giây, liệu tuổi thọ công trình sẽ như thế nào về lâu dài. Như đoán được băn khoăn của tôi, ông Ánh cho biết thêm: “Theo tính toán của các chuyên gia, nước chảy qua các kẽ đá ở sâu dưới lòng đất, không ảnh hưởng gì đáng kể đến công trình”. Nghe cách giải thích như thế, tôi biết vậy chứ mình đâu có chuyên môn trong lĩnh vực này! Xuôi sông SrêPôk, tôi đến thác Dray Sáp 1 (tên gọi mới của thác Gia Long), cách đập thủy điện Buôn Kup khoảng 2 km; thác vẫn chảy nhưng diện tích mặt thác bị thu hẹp lại đáng kể, sự hùng vĩ vẫn còn đó, song đã bớt đi nhiều sự hung dữ. Trời xế chiều, cầu vồng bảy sắc vẫn xuất hiện trên mặt thác. Anh bạn cùng đi với tôi chợt reo lên thích thú khi khám phá ra một điều hết sức mới mẻ về dòng thác: nước rất trong! Đúng thật, nước trong như lọc. Nếu ai đã từng đến thăm những dòng thác trên sông SrêPôk trước đây, cho dù đang trong mùa mưa hay cuối mùa khô, chúng ta thấy nước sông vẫn đục ngầu. Còn hôm nay, nước trong xanh, ta có thể nhìn thấy cả những chú cá đang lao mình đùa giỡn với thác. Đây lại là một điều thích thú nữa. Nước trong cũng phải thôi vì nó thấm qua chân con đập, len qua các kẽ đá từ sâu trong lòng đất trước khi trở lại với dòng sông nuôi các dòng thác. Thế là ngoài cả dự kiến của các nhà thiết kế khi hoạch định “nuôi” các dòng thác bằng cung cấp nước qua các van xả, giờ đây dòng sông tự nó tìm ra cách để tồn tại và vẫn cất tiếng hát vang khi qua các dòng thác.
Các công trình thủy điện trên dòng sông “chảy ngược” dù đã hoàn thành hay đang thi công đã góp phần làm phong phú thêm cảnh đẹp Tây Nguyên. Thật khó tin trên vùng đất chỉ có nắng và gió này đã có thêm những hồ nước lớn, không những là nguồn cung cấp điện phục vụ con người mà còn góp phần cải thiện môi trường và có ý nghĩa quyết định đến tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng cà phê, lúa, hoa màu… trên vùng đất mà nó đi qua. Xét cho cùng, chúng ta phải chấp nhận thực tế, một vài thác ghềnh nổi tiếng trên sông có thể bị mất đi hoặc kém dữ dội như xưa, nhưng đổi lại ta có được lợi ích to lớn phục vụ cuộc sống thì sự đánh đổi đó cũng chấp nhận được. Tôi tin cho dù mùa mưa hay mùa khô, dòng SrêPôk vẫn hát, khúc hát oai hùng, mạnh mẽ, tự tin vì nó đang ngày càng phục vụ cuộc sống, phục vụ con người hữu ích hơn.  

Tháng 7 năm 2009



(Dòng sông vẫn hát).

@ Nếu có gì cần lưu ý khi đọc Tiếng kêu chim én thì theo tôi, có lẽ là ở chỗ: Hồng Chiến đã sử dụng những yếu tố ngẫu nhiên làm chất liệu cho tác phẩm của mình. Bởi vì, sử dụng yếu tố ngẫu nhiên sẽ làm cho tính "kịch" trong bút ký cao hơn, tạo cho người đọc phát huy được trí tưởng tượng, gợi mở tầm hiểu biết thêm về sự kì diệu của thiên nhiên và cuộc sống muôn màu. Đó là giá trị lớn của tác phẩm. Tạo cho người đọc vào cuộc. Đó là cuộc đấu tranh giữ(chứ không phải giữa) cái thiện và cái ác, quan hệ giữa con người và con người trong lề lối ứng xử của nhân tình thê thái.


Đã lâu Chi hội Văn học - Nghthuật Krông Năng chưa được đi thực tế ra Bắc, đợt này Hội Văn học - Nghthuật Đắk Lắk tổ chức để đi thì lại không đủ quân số: người bận công việc cơ quan, người đang đi học, người đưa con đi thi đại học… danh sách 10 người, cuối cùng chốt lại còn 5, đành phải mời các Chi hội khác đi cho đủ một chuyến xe. Lên xe ai cũng háo hức trò chuyện, tâm sự nỗi niềm và hi vọng. Xe chạy theo đường Hồ Chí Minh, uốn lượn qua các triền đồi làm nhiều người trầm trồ thán phục những cánh đồng, những cánh rừng như bức tranh thủy mạc lướt qua cửa xe. Là những văn nghệ sĩ tiêu biểu của một vùng đất nhưng có người đây là lần đầu tiên được đi trên con đường mang tên Bác. Xúc động lắm, tự hào lắm và cả biết ơn Hội đã tạo điều kiện để các văn nghệ sĩ được đi tìm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Nhưng không phải ai cũng được ngắm nhìn núi đồi, phong cảnh quê hương đang bay qua cửa kính xe. Nhà thơ Nguyễn Man Kim say xe không dám nhìn đường… Nhà thơ Đỗ Toàn Diện lại chọn cho mình cách… im lặng.

Đường Trường Sơn hay còn gọi đường Hồ Chí Minh hôm nay được làm khá tốt, tấp nập xe xuôi ngược. Xe vừa chạy qua đèo Lò Xo, chuông điện thoại đổ dồn, mở máy thấy nhà thơ Trần Văn Hội hỏi: “Đã đi đến đâu rồi, các anh em ở Hội liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế đang chuẩn bị đón đoàn đấy”. Tôi giật mình, 7 giờ sáng xuất phát từ Buôn Ma Thuột, bây giờ mới 13 giờ các anh ngoài đó đã chuẩn bị đón, đi làm sao kịp, xe có chạy nhanh cũng phải 20 hoặc 21 giờ mới tới Huế. Trên xe nghe thông báo ai cũng vui vì sắp được gặp gỡ, giao lưu với các bạn văn thơ xứ cố đô. Có lẽ nhà thơ Trần Văn Hội quá sốt ruột, nên cứ cách một tiếng lại gọi một lần hỏi thăm xem xe đi đến đâu rồi, thật vui. Anh là cựu sinh viên Huế, một thời nổi tiếng trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, biểu tình, bãi khóa chống chế độ cũ; nước nhà thống nhất lại hăng hái nhận nhiệm vụ đưa dân lên Đắk Lắk lập quê hương mới và được điều động về công tác tại Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện Krông Buk. Thơ anh được nhiều người ưa thích, bạn bè đánh giá rất cao vì có phong cách riêng. Nhận thông báo đi thực tế sáng tác, anh lên Hội xin về Huế trước mấy ngày để thu xếp công việc gia đình rồi cùng đón đoàn ra Bắc.  Hơn 20 giờ chúng tôi mới tới Huế, thật vui và xúc động khi thấy nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc - Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, hoạ sĩ Nguyễn Tuấn - biên tập viên Tạp chí Văn hoá Huế và các bạn văn nghệ sĩ đến đón chúng tôi ngay tại cửa xe. Tay bắt mặt mừng như anh em lâu ngày về lại quê nhà, các anh đưa chúng tôi đến nhà hàng bên bờ sông Hương. Chị Phan Thị Thuỷ - cán bộ văn phòng Tạp chí Sông Hương còn giới thiệu thêm với đoàn vì sao chọn nhà hàng này và bố trí bàn ăn quay ra mặt sông đúng địa điểm nơi từng diễn ra cuộc thi Hoa hậu thời trang. Trời Huế về đêm, không khí như trong lành hơn, làm mọi người hết sức sảng khoái, quên đi một ngày rong ruổi trên đường. Có người cao hứng định xin phép đọc thơ, nhà thơ Thanh Ngọc gạt đi và tuyên bố: “Hôm nay gặp gỡ, giao lưu với Đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk, ta chỉ nói chuyện vui, tâm sự thôi; cấm không được nói chuyện chuyên môn”. Mọi người cùng vỗ tay tán thưởng. Gần 22 giờ, họa sĩ Đặng Mậu Tựu mới về tới nơi. Anh nói: “Tôi phải dự lễ khai mạc trại sáng tác mở dưới huyện Quảng Điền, cách đây gần 50 km, nghe tin các anh chị ở Đắk Lắk ra nên thu xếp để về”. Tuy bận công việc, đường sá xa xôi như vậy nhưng họa sĩ Đặng Mậu Tựu - Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học - Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế cũng gắng về gặp mặt và giao lưu với Đoàn. Tình cảm đó thật đáng quý biết bao. Ngồi trên đất cố đô, bên những người bạn Huế, ngắm dòng sông Hương êm đềm, lấp lánh ánh đèn hai bên bờ chiếu xuống, thỉnh thoảng một chiếc thuyền rồng lướt qua làm ánh điện vỡ ra muôn vàn mảnh lung linh trông thật đẹp, tiếng nhạc êm êm rải vào thinh không làm mọi người cứ tưởng mình đang ở trong cõi mơ! Đêm ở thành phố Huế hầu như ngắn hơn mọi nơi trên trái đất thì phải, mới vừa gặp nhau một chút đã quá nửa đêm, đến lúc phải chia tay các anh. Tay nắm tay mà lòng không muốn buông, nhưng thời gian không cho phép, ngày mai đoàn lại phải tiếp tục lên đường nên đành... hẹn lại dịp sau. Thành phố Huế cổ kính và thanh bình với những vẻ đẹp đặc biệt của vùng Á Đông tạo cho du khách một chút thanh tịnh, lưu luyến và con người ở đây cũng thật gần gũi thân thương với tình cảm hết sức chân thành, giản dị đã in sâu vào trái tim bạn bè.
Theo lịch trình, đoàn sẽ nghỉ đêm tại thị xã Uông Bí để sáng hôm sau lên thăm Yên Tử, tiện đường đi anh em văn nghệ sĩ đề nghị ghé thăm Lữ đoàn tên lửa Sao Đỏ đóng quân tại Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Xe tới cổng đơn vị, Đại tá Nguyễn Văn Thạo - Phó chính ủy Lữ đoàn ra tận cổng đón. Vào đến sân hội trường, Đại tá Vũ Đăng Trung - Lữ đoàn trưởng bước ra sân bắt tay từng người một vui vẻ mời vào. Sau thủ tục xã giao làm quen, Đại tá Nguyễn Văn Thạo giới thiệu vài nét về đơn vị, tuy thời bình nhưng cán bộ chiến sĩ trong đơn vị luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, đảm bảo sự bình yên cho bầu trời Thủ đô. Đại tá Vũ Đăng Trung cho biết thêm: từ khi thành lập đến nay đơn vị luôn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao và vừa qua cấp trên đã có quyết định chuyển Đại tá Nguyễn Văn Thạo về đơn vị mới làm Chính ủy. Buổi giao lưu với anh em văn nghệ sĩ Đắk Lắk ra thăm đơn vị được tổ chức khá chu đáo, ấm tình quân dân. Các văn nghệ sĩ trong đoàn Đắk Lắk như: nhà thơ Trần Chi, nhà thơ Đỗ Toàn Diện, nhà thơ Nguyễn Trọng Đồng, nhạc sĩ Hồ Tuấn… đã trình bày những bài thơ, bản nhạc mà mình tâm đắc nhất tặng đơn vị. Trong không khí vui vẻ của buổi giao lưu, bất ngờ Đại tá Vũ Đăng Trung xung phong hát một ca khúc mình mới sáng tác, mọi người nhiệt liệt vỗ tay hoan hô. Không ngờ những anh bộ đội Cụ Hồ ở Lữ đoàn tên lửa cũng yêu văn nghệ và quý văn nghệ đến thế. Không khí buổi giao lưu thật ấm cúng, mang lại nhiều bổ ích cho những người làm công tác sáng tác văn học - nghệ thuật. Từ vùng Tây Nguyên xa xôi lần đầu tiên các văn nghệ sĩ đến đồng bằng sông Hồng, tận mắt thấy môi trường rèn luyện người bộ đội thời bình canh giữ bầu trời; các anh đã giúp văn nghệ sĩ hiểu đúng hơn, chính xác hơn hình ảnh người lính binh chủng Phòng không oai hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam, những người đã lập nên kỳ tích trong thế kỷ XX và hôm nay trong tình hình mới. Cuối buổi giao lưu, các anh lãnh đạo đơn vị còn mời đoàn đi thăm các doanh trại của đơn vị, tận mắt chứng kiến cảnh sinh hoạt của các anh bộ đội thời bình. Những người lính hôm nay tuy chưa phải đối mặt với quân thù như các lớp cha anh đi trước, nhưng trên thao trường, cũng phải dãi dầu mưa nắng, vật lộn với mọi khó khăn vất vả về thời tiết khí hậu, đảm bảo khí tài luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. Trước đây, lớp chúng tôi đã thuộc câu “thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu”, ngày nay các anh, những người đi sau hình như cũng rất thuộc câu nói đó, bằng chứng là cách các anh đang thể hiện trong các buổi tập trên thao trường.
Chia tay các anh những người canh giữ bầu trời, mang lại bình yên cho Tổ quốc, chúng tôi càng hiểu thêm về người lính và chắc chắn trong các sáng tác của mình sau này - các anh sẽ là nguồn cảm hứng lớn để chúng tôi sáng tạo được những tác phẩm có chất lượng cao.
Sau chuyến đi 10 ngày, Đoàn văn nghệ sĩ Đắk Lắk qua nhiều vùng đất nước như: Huế, Hà Nội, Yên Tử, Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng… ở đâu đoàn cũng được đón tiếp chân tình và thu được những kết quả hết sức tốt đẹp, và tích lũy thêm nhiều tư liệu quý giá để sáng tác. Những cuộc gặp gỡ, giao lưu với đơn vị bạn không những thắt chặt tình cảm giữa các Hội, mà còn giúp cho anh chị em văn nghệ sĩ hiểu thêm về từng vùng, từng miền đất nước và con người Việt Nam, có thêm nguồn cảm hứng để sáng tạo nghệ thuật.

Tháng 8 năm 2009



(Vòng tay bè bạn)



và nét độc đáo trong tập sách Tiếng kêu chim én của nhà văn Hồng Chiến là thường sử dụng, hay nói đúng hơn là chỉ dùng một lối kể chuyện quen thuộc để dẫn dắt câu chuyện. Với một không gian và thời gian hiện thực đơn thuần, thỉnh thoảng có đan chút xen cài, đảo ngược, để tạo ra sự tò mò và gây hứng thú cho người đọc, song vẫn mở ra được nhiều tuyến chủ đề, nhiều tầng ngữ nghĩa, đưa lại nhiều hiệu ứng thẩm mĩ khác nhau.

BMT 10.10.2010